(TG) - Văn hóa pháp luật - một trong những hình thái của văn hoá, có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện - trụ cột cơ bản của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Văn hóa pháp luật là một trong những loại hình của văn hóa xã hội; là
“tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong
lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các
thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc,
những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được
trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật”(1).
Từ góc độ cấu trúc hệ thống, văn hóa pháp luật được cấu thành từ các
thành tố cơ bản là: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, các thiết chế pháp luật,
các phương tiện pháp luật; hành vi, lối sống pháp luật, trình độ sử dụng pháp
luật. Đồng thời, từ phương diện ứng dụng trong thực tiễn đời sống nhà nước,
pháp luật, văn hóa pháp luật là khái niệm chỉ một trạng thái tốt, trạng thái có
chất lượng của đời sống pháp luật quốc gia, được thể hiện ở trình độ nhất định
đạt được về sự hoàn thiện pháp luật, về ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật của
mọi cá nhân.
Quan điểm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đã được xác
định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận
thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên
khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời
đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(2).
Hiện nay Chính phủ đang triển khai xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2030 nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
về phát triển con người toàn diện. Theo đó, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người, xây dựng con người văn hóa, phát triển toàn diện, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh là một trong những quan điểm chủ đạo trong tổng thể
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, giàu lòng yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết, cần cù sáng tạo là góp phần kiến tạo nên bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định rõ hơn yêu cầu về xây dựng “hệ
giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” gắn với giữ gìn,
phát triển “hệ giá trị gia đình Việt Nam” trong thời kỳ mới. Theo đó, bên cạnh
các giá trị cốt lõi cần hướng tới như Công bằng, Quyền/quyền lợi Bình đẳng, Tự
do, Khoan dung, Dân chủ; Hòa bình; Dân chủ; Tuân thủ pháp luật; trách nhiệm xã
hội(3), hệ giá trị Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ,
hội nhập cũng cần hội tụ những giá trị cơ bản: Yêu nước; Nhân ái; Nghĩa tình;
Trung thực; Sáng tạo; Dân chủ; Pháp quyền; Bản lĩnh; Trách nhiệm và Hợp tác, bảo
vệ môi trường.
“Nội dung cơ bản về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải
bao gồm cả “xây”những phẩm chất tốt đẹp, “chống”những biểu hiện sai trái về đạo
đức, pháp luật và “khắc phục” những hạn chế, yếu kém trong nhận thức, hành vi của
con người Việt Nam.”
Việc xây dựng con người phát triển toàn diện chính là nhằm đáp ứng tốt
nhất nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc
tế, phát triển bền vững. Bởi, con người muốn phát triển toàn diện thì cần phải
có những phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp lý, khoa học, kỹ thuật, có năng lực
sáng tạo tốt, có ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, yêu nước, tự hào dân tộc,
có lối sống văn hóa. Đồng thời nhận diện rõ và khắc phục tình trạng suy thoái về
tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương xã hội,
tha hóa về lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tăng cường việc kiểm
tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm
pháp luật.
Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, có rất nhiều công việc, giải
pháp phải thực hiện đồng bộ, trong đó, xây dựng văn hoá pháp luật một cách bền
vững có vai trò đặc biệt quan trọng cả trên phương diện xây dựng và thực thi
pháp luật trong cuộc sống.
“Vai trò giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự định hướng cho
các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá
nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà
không vi phạm pháp luật.
Văn hoá pháp luật góp phần tích cực trong việc điều tiết ý thức, hành
vi, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật không chỉ trong các mối quan hệ của
con người với nhau mà cả trong quan hệ của con người với môi trường thiên
nhiên, định hướng con người đến những giá trị cốt lõi Chân - Thiện - Mỹ - Ích.”
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ VĂN
HÓA PHÁP LUẬT
Để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cần phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp văn hoá, kinh tế, chính trị, pháp lý. Từ phương diện pháp
lý, xin được đề cập một số giải pháp về văn hoá pháp luật góp phần thực hiện
chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Một là, kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức,
lối sống tuân theo pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội.
Giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật là điều kiện không thể thiếu
được để hình thành hành vi hợp pháp và hợp đạo đức, hạn chế những hành vi vi phạm
pháp luật.
Giáo dục pháp luật hướng vào việc hình thành, nâng cao thái độ, tình cảm
tôn trọng pháp luật, niềm tin của con người vào pháp luật, tôn trọng quyền, tự
do, lợi ích chính đáng của con người, ý thức trách nhiệm đối với người khác, cộng
đồng và xã hội. Giáo dục pháp luật còn giúp công dân biết đánh giá các hiện tượng
pháp lý: tính đúng đắn hay không của một quyết định toà án, một quyết định hành
chính; tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật.
Làm sao cho việc phòng, chống, việc xử phạt cái ác, khuyến khích, bảo vệ cái
thiện phải được thể hiện rõ nét hơn trong pháp luật và thực thi pháp luật. Đó
chính là cách tốt nhất để phát huy tác động tích cực giữa pháp luật và đạo đức,
đồng thời là cách tốt nhất để vừa “thượng tôn pháp luật, vừa thực hành đạo đức”
trong cuộc sống hiện đại.
Không chỉ dừng lại ở những chế tài pháp luật mà phải “gõ cửa”, “đánh thức”
lương tâm mỗi con người để họ thận trọng hơn, có trách nhiệm hơn về mỗi hành vi
của mình. Do đó, cần tạo dư luận xã hội để lên án những hành vi vi phạm đạo đức
và pháp luật. Đồng thời, ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những hành vi
hợp pháp, hợp đạo đức. Xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật để vừa bảo vệ được
đạo đức, vừa tạo điều kiện xoá bỏ những quan điểm phản tiến bộ; thúc đẩy hình
thành những quan điểm, chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ.
Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp
luật, đảm bảo tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật.
Một trong những nội dung cần đổi mới trong phổ biến, giáo dục pháp luật
chính là sự kết hợp phổ biến, giáo dục về kiến thức pháp luật với những kỹ năng
cần thiết trong thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật là cơ sở để mỗi cá
nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống tuân theo pháp luật. Đưa các yếu tố
pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong giáo dục đạo đức và ngược lại;
phát triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp
lý và nâng cao an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong các quan hệ xã hội,
hoạt động xã hội.
Phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò to lớn tác động đến ý thức và
hành vi hợp pháp của các cá nhân. Luật pháp muốn hiệu lực hiệu quả thì ngoài sức
mạnh của công quyền và những “nguyên tắc, điều luật, thiết chế” thì còn cần huy
động cả sức mạnh của tư tưởng và tinh thần, để pháp luật phải được con người nhận
thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự tôn trọng đối với
pháp luật. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải sát thực, phù hợp với
các nhóm đối tượng xã hội trong các lĩnh vực quan hệ xã hội.
Ba là, giáo dục ý thức về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của con người.
Trong nội dung giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cần
trang bị kiến thức, kỹ năng thực hành văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con
người.
Văn hóa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm con người là một thể thống nhất
bao gồm các thành tố cơ bản là: sự hiểu biết - kiến thức cơ bản về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm đạo đức, pháp lý của con người, ý thức tôn trọng quyền con người,
tôn trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức; kỹ năng sử dụng, bảo vệ các quyền con
người, thực hiện nghĩa vụ cơ bản, nghĩa vụ cụ thể theo quy định pháp luật.
Để xây dựng con người phát triển toàn diện, cần thiết phải xây dựng văn
hoá quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm con người.
“Con người phát triển toàn diện trước hết phải là con người hiểu biết
các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội; tôn trọng, tuân thủ
pháp luật thành thói quen, ứng xử văn hoá trong mọi hoạt động xã hội của bản
thân mình.”
Có một thực tế là, khi thực hành các quyền, tự do của mình, cá nhân rất
dễ rơi vào trạng thái có nguy cơ lạm dụng, lợi dụng, vượt quá giới hạn và tràn
sang miền cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi
ích của những người khác và xã hội. Trên thực tế, chúng ta thấy vẫn còn sự sai
lệch cả trong nhận thức và hành vi, thực hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
con người.
Như một tất yếu, cuộc sống càng hiện đại, khoảng không tự do càng rộng
thì lại càng cần đến ý thức và thực hành trách nhiệm - bổn phận cá nhân đối với
những người xung quanh, cộng đồng và xã hội. Chẳng hạn, trong cuộc chiến phòng
chống đại dịch COVID-19, vấn đề trách nhiệm cá nhân con người có tầm quan trọng
đặc biệt. Không chỉ quyền, tự do, không chỉ một nghĩa vụ cụ thể mà cao hơn, bền
vững hơn là trách nhiệm đạo đức, pháp lý con người đối với sự an toàn và công bằng
trong xã hội.
Văn hoá nói chung, văn hoá quyền con người, văn hoá nghĩa vụ, trách nhiệm
con người không chỉ là những hành vi nhất thời, hình thức mà phải trở thành những
thói quen ứng xử, là nhận thức và hành vi thực tế của mỗi con người trong mọi
không gian, thời gian, lĩnh vực, địa bàn; phải được nhận thức, thực hành thường
xuyên, mọi nơi, mọi thời điểm, trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động
của các cơ quan công quyền, cá nhân công quyền chứ không chỉ là những khẩu hiệu,
báo cáo...
Giáo dục quyền con người nhằm trang bị cho con người những kiến thức cần
thiết về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người, kỹ năng thực hành quyền
con người, tạo lập ý thức, thói quen tôn trọng, bảo vệ quyền con người phù hợp
với các nguyên tắc pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia về quyền con người.
Tạo lập một cách bền vững văn hóa quyền con người, văn hóa nghĩa vụ,
trách nhiệm con người cũng chính là tiền đề, điều kiện đảm bảo thực hiện mục
tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
Bốn là, xây dựng văn hóa pháp luật đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Văn hóa pháp luật của cán bộ, viên chức, công chức nhà nước như một tất
yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa pháp luật của các cá nhân trong đó có việc
tạo lập niềm tin vào công lý và pháp luật - một trong những điều kiện cơ bản đảm
bảo ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đối với đội ngũ cán bộ, viên chức,
công chức, trình độ văn hoá pháp luật phải được thể hiện, đo lường thông qua
các tiêu chí cơ bản: trình độ hiểu biết pháp luật, bản lĩnh và kỹ năng áp dụng,
thi hành pháp luật, ý thức, hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của con người.
Xây dựng văn hóa công vụ để hình thành một cách bền vững ý thức trách
nhiệm đạo đức công vụ, tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật thực
hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao một cách trung thực,
tận tuỵ, mẫn cán, cẩn trọng, tránh xung đột lợi ích, không vụ lợi cá nhân và chịu
trách nhiệm về kết quả thực hiện. Sự tận tụy, nhiệt tình, chuyên nghiệp, thận
trọng, công tâm, có trách nhiệm với con người và tổ chức, với công việc hàng
ngày trong hoạt động công vụ là điều kiện cơ bản để tạo lập, vận hành nền công
vụ phục vụ xã hội hiệu lực và hiệu quả.
Nội dung của xây dựng văn hóa công vụ bao hàm cả giáo dục liêm chính. Cần
đưa nội dung giáo dục liêm chính vào trong giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật,
giáo dục quyền con người theo cách mới, gắn với chế độ công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình, phòng chống tham nhũng.
Năm là, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, kịp thời trong thi hành, áp dụng
pháp luật, xây dựng niềm tin pháp luật.
Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện không nghiêm
minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng trong thực thi pháp luật của
các cơ quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đối với ý thức và
hành vi hợp pháp luật của con người. Việc thiếu niềm tin vào tính công bằng,
bình đẳng và nghiêm minh của pháp luật là một trong những yếu tố làm tăng thêm
chi phí tổ chức thực hiện của pháp luật(4). Max Weber đã từng nhấn mạnh rằng, một
Nhà nước có hưng thịnh hay không tuỳ thuộc vào việc những đạo luật do Nhà nước
ban hành có được tuân thủ hay không(5).
Sáu là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cân bằng các loại lợi
ích, đơn giản,minh bạch, nhất quán, thống nhất, ổn định.
Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống, công khai, minh bạch của
pháp luật và việc thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng, kịp thời sẽ là một
trong những điều kiện cơ bản để tạo dựng môi trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả.
Tình trạng tần suất cao về sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật, quy định
pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo nhau, vi phạm nguyên tắc tính tối cao của Hiến
pháp và Luật là những lực cản lớn cho việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm lý
coi thường, mất niềm tin vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho những chuỗi
vi phạm pháp luật ngoài vòng xử lý.
Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe và phù hợp với tính chất, mức độ,
hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật là một trong những điều kiện cơ bản đảm
bảo thực hiện các hành vi hợp pháp, giảm thiểu vi phạm pháp luật. Các chế tài
nghiêm minh và những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực thi là điều kiện
quan trọng có tác động mạnh mẽ đến ý thức và hành vi hợp pháp của con người.
Bảy là, xây dựng tính tích cực pháp luật, tạo lập dư luận xã hội lên án
những biểu hiện coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật; hỗ trợ, tôn vinh những
hành vi hợp pháp, có văn hóa pháp luật.
Cần tạo lập tính tích cực pháp lý, gia tăng mức độ xã hội hóa pháp luật
của các cá nhân, không chỉ có tuân thủ pháp luật mà còn tích cực tham gia vào
việc xây dựng chính sách, pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống. Tạo lập dư
luận xã hội chính là một trong những biện pháp mạnh mẽ để đấu tranh với những
hành vi vi phạm pháp luật, khuyến khích, hỗ trợ các hành vi hợp pháp, đặc biệt
là trong một số lĩnh vực như giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt hàng
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh.../.
GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
TS. LÊ THỊ PHƯƠNG NGA
Đại học Quốc gia Hà Nội
__________________________
(1) Lê Minh Tâm: Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay, Tạp chí Luật học, số 5/1998.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.143.
(3) Phạm Huy Đức: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày
14/6/2021.
(4) Nguyễn Sĩ Dũng: Việc tổ chức thực hiện pháp luật trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10/2010.
(5) Dẫn theo: Ulrich Karpen, Những điều kiện bảo đảm hiệu quả của Nhà
nước pháp quyền, đặc biệt ở các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp
hoá, trong Josef Thesing (chủ biên): Nhà nước pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc
gia, H, 2002, tr. 335-379.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét