Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2022

Bài 3: Cần cơ chế giám sát người đứng đầu (tiếp theo và hết)

[QĐND] Theo Báo cáo số 162-BC/BNCTW ngày 16-6-2022 của Ban Nội chính Trung ương, năm 2021, cấp ủy các cấp đã có 142.172 cuộc tiếp dân định kỳ, 9.562 cuộc tiếp đột xuất; đã giải quyết 37.106 phản ánh, kiến nghị; đang giải quyết 4.076 kiến nghị; có 20.474 phản ánh, kiến nghị đã được chuyển tới các cơ quan chức năng, người có thẩm quyền giải quyết.

Những con số trên có thể chưa phản ánh đầy đủ công tác tiếp dân, xử lý các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhưng qua đó có thể thấy, việc thực hiện nghiêm Quy định 11 giúp người đứng đầu cấp ủy gần dân hơn.

Nhiều cách làm sáng tạo

Tại Quảng Bình, việc đăng ký dự phiên tiếp dân, đối thoại với dân của Bí thư Tỉnh ủy có thể thực hiện trực tuyến qua địa chỉ quangbinh.gov.vn và noichinh.quangbinh.gov.vn, hoặc đăng ký trước bằng đơn và đăng ký trực tiếp tại phiên tiếp dân. Cùng với đó, thời gian tổ chức phiên tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trùng thời gian với phiên tiếp công dân của UBND tỉnh nhằm tối ưu thời gian của các thành phần tham dự.

Hay ở Hà Tĩnh, quy định tạm thời tiếp dân “3 trong 1”, bao gồm: Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh cùng chủ trì tiếp dân trong một buổi bước đầu đạt hiệu quả trong chỉ đạo, xử lý các kiến nghị của công dân. Vì tiếp dân “3 trong 1” nên lãnh đạo tỉnh cùng nắm được thông tin, có cái nhìn bao quát hơn, trong điều hành thống nhất hơn để tập trung chỉ đạo xử lý, đôn đốc giải quyết kịp thời. Hiệu quả tiếp công dân và giải quyết đơn, thư, vụ việc từ đó cũng được nâng lên.

Việc kết hợp "3 trong 1" cũng được nhiều tỉnh áp dụng, như tại Kon Tum, trong buổi tiếp công dân định kỳ gồm: Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh, đại diện Thường trực HĐND tỉnh và lãnh đạo đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh.

Đồng chí Dương Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, nay là Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum (thứ hai, từ phải sang), làm việc tại làng Pyầu, xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, năm 2017. Ảnh: HOÀNG VIỆT 

Tỉnh ủy Quảng Bình cũng có nhiều cách làm hay để thực hiện hiệu quả Quy định 11. Đồng chí Nguyễn Lương Bình, Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy cho biết: "Tổ công tác 1743 được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình thành lập có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài theo ý kiến của Bí thư Tỉnh ủy. Tổ tham mưu xử lý đơn, thư (Tổ 09) được thành lập gồm các thành viên là cán bộ, chuyên viên có kiến thức chuyên sâu nhiều lĩnh vực thuộc các cơ quan chức năng để tranh thủ trí tuệ tập thể trong nghiên cứu, tham mưu xử lý, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Qua việc phát huy được hiệu quả hoạt động của các tổ này, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm. Đây là cơ hội, môi trường để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nâng cao trình độ, kỹ năng, chất lượng thực thi công vụ".

Và không ít khó khăn

Trong các kỳ sơ kết, nhìn chung, Quy định 11 với những hướng dẫn thực hiện chi tiết, khi triển khai được các địa phương nghiêm túc thực hiện với sự đồng thuận, quyết tâm cao của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp. Nhờ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời ban hành các văn bản để cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện đã mang lại hiệu quả tích cực. Đối với tỉnh Bắc Kạn, chủ động dành thời gian trực tiếp tiếp công dân, lắng nghe, đối thoại với dân; chỉ đạo xử lý, giải quyết kịp thời, dứt điểm các kiến nghị, khiếu nại của công dân là hoạt động thường xuyên của người đứng đầu cấp ủy các cấp từ nhiều năm nay. Bởi vậy, Quy định 11 tuy là nội dung mới, song thực chất việc này đã được Bắc Kạn thực hiện có nền nếp từ lâu.

Tuy nhiên, thực tế vẫn nảy sinh một số khó khăn phổ biến ở các địa phương: Số lượng đơn, thư gửi đến Bí thư Tỉnh ủy nhiều, tuy nhiên, phần rất lớn trong số đó là không đúng thẩm quyền, không đủ điều kiện xử lý. Hầu hết là những vụ việc liên quan đến lĩnh vực đất đai, chế độ chính sách; trong đó không ít vụ việc phức tạp, tồn đọng nhiều năm, qua nhiều nhiệm kỳ, gây khó khăn trong quá trình giải quyết.

Ví dụ tại Bắc Giang, từ đầu năm đến ngày 24-5-2022, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Dương Văn Thái đã tiếp nhận tổng số 549 đơn, thư các loại; đã chỉ đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy chuyển 165 đơn đến cấp, người có thẩm quyền để giải quyết, trả lời công dân; hướng dẫn 77 công dân gửi đơn đến cấp có thẩm quyền để được giải quyết; có văn bản trả lời đối với 73 đơn, thư của công dân, số còn lại xếp lưu do đơn không đủ điều kiện xử lý.

Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của một bộ phận công dân còn hạn chế, cố tình đòi hỏi vô lý, không đồng ý với kết quả giải quyết khách quan, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý của cấp có thẩm quyền; thậm chí không ít trường hợp lôi kéo, móc nối với các đối tượng xấu kích động người khác khiếu kiện, lợi dụng quyền tự do, dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo gây mất trật tự nơi làm việc, làm ảnh hưởng đến uy tín và khó khăn cho công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy các cấp như một số địa phương, có thể kể đến như Bến Tre, Hà Nam, Vĩnh Phúc...

Chúng tôi có mặt tại xã Tường Đa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để tìm hiểu các phản ánh, tố cáo tại đây và gặp ông Lê Hoàng Lâm, một người đang trong tâm trạng hết sức rối bời. Trước đó, ngày 20-2-2020, ông Lâm có viết bản tường trình câu chuyện ông nghe được về sai phạm của một cán bộ xã. Tuy nhiên, ông Lâm sau đó khẳng định nội dung bản tường trình hoàn toàn không có thật. Ông cho biết: "Đó là do ông Lê Văn Chiến xúi tôi viết. Bây giờ tôi hối hận lắm vì đã nghe xúi, làm điều sai".

Theo báo cáo của các cơ quan chức năng tỉnh Bến Tre và qua tìm hiểu thực tế tại địa phương, các phản ánh, tố cáo của ông Lê Văn Chiến đa số được nghe người khác kể lại. Từ đó ông cho rằng địa phương có tiêu cực nên thường xuyên phản ánh, tố cáo, thay người khác gửi đơn tới các cơ quan để yêu cầu giải quyết, ngày càng có thái độ quá khích, gay gắt. Hầu hết các nội dung mà ông Lê Văn Chiến phản ánh, tố cáo đều không cung cấp được thông tin, tài liệu có liên quan.

Ngoài những khó khăn khách quan, về chủ quan, thực tế năng lực của cán bộ ở các cấp quận, huyện, xã, phường tại một số địa phương còn nhiều hạn chế, dẫn đến công tác xử lý, phản ánh, khiếu nại của người dân không kịp thời, thậm chí để xảy ra sai sót.

Để Quy định 11 đi vào thực chất

Làm tốt công tác tiếp dân cũng là để người đứng đầu cấp ủy không rơi vào căn bệnh “quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở” mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Tiếp dân phải là hoạt động thực chất, tránh hình thức, đặc biệt là tình trạng sắp xếp “đại biểu chuyên trách”, chỉ đến để nói lời khen trong các buổi tiếp công dân.

Nhiều địa phương đưa ra một số kinh nghiệm để tăng cường hiệu quả công tác giải quyết kiến nghị của nhân dân như: Tăng cường giám sát của HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội từ tỉnh đến cơ sở với công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, đối thoại trực tiếp với dân theo quy định; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu cho bí thư cấp ủy tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo...

Như bài trước, chúng tôi đã chỉ ra tình trạng một số địa phương, người đứng đầu cấp ủy đã không thực hiện đúng quy định tiếp dân định kỳ hằng tháng. Quả thực, khối lượng công việc của người đứng đầu cấp ủy, nhất là cấp tỉnh rất lớn nên dễ ảnh hưởng đến việc sắp xếp thời gian tiếp dân. Tuy nhiên, từ kết quả của những địa phương làm tốt cho thấy, nếu xác định kế hoạch định kỳ một ngày trong tháng thì bí thư cấp ủy đều có thể chủ động sắp xếp được thời gian để tiếp dân. Bởi vậy, xây dựng quy chế tiếp công dân với quy định về thời gian khoa học, phù hợp thực tiễn cũng là giải pháp để thực hiện hiệu quả việc tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy.

Để công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy hiệu quả, những phản ánh, khiếu nại của người dân được sớm giải quyết, người dân cũng cần được nâng cao hiểu biết về các quy định liên quan để gửi đơn, thư đến đúng người, đúng địa chỉ. Không để các đối tượng xấu lợi dụng, gây mất ổn định trật tự, vi phạm pháp luật. Các địa phương cũng cần có các chế tài cụ thể hơn và xử lý quyết liệt hơn với những trường hợp cố tình gây rối, lợi dụng quyền tự do dân chủ, việc khiếu nại, tố cáo để vi phạm pháp luật. Ở Lạng Giang (Bắc Giang), với những đối tượng có biểu hiện lợi dụng quyền công dân, việc tiếp dân của bí thư cấp ủy để cố tình gây rối, lôi kéo, kích động người khác, các cơ quan đã chủ động mời báo chí vào cuộc làm rõ, thông tin để người dân nắm thông tin, không để bị lợi dụng kích động.

Mặt khác, để giảm thiểu những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đã có đề xuất nên chăng Quy định 11 cần bổ sung chế tài xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy các cấp nếu không tập trung giải quyết vụ việc phức tạp, đông người, kéo dài.

Ngoài ra, cùng với phổ biến, quán triệt rộng rãi Quy định 11 tới đông đảo cán bộ và người dân, công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy cần được thường xuyên đánh giá, tổng kết để kịp thời khắc phục yếu kém, đưa ra những giải pháp phù hợp hơn. Đồng thời, thường xuyên bồi dưỡng năng lực chuyên môn của cán bộ làm công tác tiếp dân và bộ phận tham mưu xử lý, giải quyết các vụ việc để không ngừng nâng cao chất lượng tiếp công dân.

Đồng chí Lê Doãn Hợp, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An từng nói: “Làm lãnh đạo phải chịu học, đọc, nghe, chịu đi cơ sở để hiểu lòng dân, để tổng kết thực tiễn, để thể hiện trách nhiệm của mình”. Bí thư Huyện ủy Lạng Giang (Bắc Giang) Tạ Huy Cần trong công tác tiếp dân ngoài việc kiên quyết không ủy quyền còn giữ thói quen đi làm bằng xe đạp. Ông cho rằng, đạp xe đi làm vừa là một cách để tập thể dục, vừa là quan sát nắm tình hình địa phương. Nhiều vụ việc hay vấn đề mới phát sinh, thậm chí cấp dưới chưa kịp báo cáo thì đồng chí đã chủ động chỉ đạo các cơ quan bám nắm giải quyết, không để sự việc diễn biến phức tạp.

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Quy định 11, những rào cản lớn để bí thư cấp ủy tiếp dân, trực tiếp lắng nghe dân dần dần được tháo gỡ. Dẫu vậy, đã là quy định thì mang tính bắt buộc, cần sự gương mẫu chấp hành của đội ngũ bí thư cấp ủy, không thể để tình trạng "nơi nóng, nơi lạnh" kéo dài. Để thực hiện tốt Quy định 11, theo ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng, nay là Vụ cơ sở Đảng, đảng viên (Ban Tổ chức Trung ương), trước hết là vấn đề nhận thức. Nhận thức chi phối tất cả hành động của mỗi người. Công tác tiếp công dân, không chỉ người đứng đầu cấp ủy mà cả người dân phải được nhận thức đầy đủ, đúng đắn; là một cơ chế cần được thực hiện nghiêm. Cần phải hình thành cơ chế để người dân tham gia giám sát người đứng đầu cấp ủy trong xây dựng Đảng nói chung và thực hiện Quy định 11 nói riêng. Đối với mỗi bí thư cấp ủy, nếu nhận thức rõ chấp hành Quy định 11 chính là chấp hành kỷ luật của Đảng, là chiếc "lồng cơ chế" bảo đảm cho bí thư cấp ủy phòng, chống bệnh xa dân thì công tác này sẽ đi vào thực chất. Ngược lại, nếu nhận thức chưa đúng, tìm cách đổ lỗi cho các lý do khách quan thì hiện tượng "nghị quyết trên trời, cuộc đời dưới đất" sẽ vẫn còn xuất hiện ở nhiều nơi.

DƯƠNG HÒA - HOÀNG VIỆT

Vụ Việt Á: Bắt Giám đốc CDC Cà Mau Đặng Hải Đăng

[Công Thương] Giám đốc CDC Cà Mau Đặng Hải Đăng và một số đối tượng đã bị bắt do liên quan vụ Việt Á.

Ngày 31/7, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau thi hành quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam, khám xét chỗ ở và nơi làm việc đối với các ông: Đặng Hải Đăng (SN 1966), Giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) Cà Mau; Hồ Quang Nhu, Phó trưởng phòng Kế hoạch – Nghiệp vụ CDC Cà Mau và Lê Ngọc Định, Trưởng phòng Kế hoạch - Tài chính, Sở Y tế tỉnh Cà Mau, về hành vi “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng".

Ông Đặng Hải Đăng nghe cảnh sát đọc lệnh bắt tạm giam

Trước đó, ngày 18/4, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở Y tế và CDC Cà Mau. Qua quá trình xác minh, điều tra, ngày 31/7, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau đã thực hiện lệnh bắt tạm giam, khám xét đối với 3 bị can trên.

Kết quả điều tra xác định, từ tháng 1/2020 đến tháng 10/2021, Sở Y tế, CDC Cà Mau và Bệnh viện đa khoa tỉnh Cà Mau thực hiện 11 gói thầu mua kít xét nghiệm COVID-19, máy tách chiết DNA/RNA tự động, hóa chất, sinh phẩm và thiết bị phục vụ công tác phòng chống dịch COVID-19 của Công ty Việt Á, với số tiền 49,47 tỷ đồng.

Căn cứ kết quả điều tra xác định, Sở Y tế mua kít xét nghiệm COVID- 19 của Công ty Việt Á cao hơn so với chi phí sản xuất (đã bao gồm 5% lợi nhuận và chi phí khác), dẫn đến thiệt hại khoảng 9,156 tỷ đồng; còn lại gói thầu 40.000 kít chưa thanh quyết toán.

Cũng theo kết quả điều tra, CDC Cà Mau mua kít xét nghiệm COVID- 19 của Công ty Việt Á cao hơn so với giá của chi phí sản xuất (đã bao gồm 5% lợi nhuận và chi phí khác), dẫn đến thiệt hại khoảng 3,09 tỷ đồng.

Quá trình thực hiện hồ sơ đấu thầu mua kít xét nghiệm COVID-19 của Công ty Việt Á, các ông Định, Đăng và Nhu thực hiện không đúng quy định về đấu thầu “không bảo đảm công bằng, minh bạch”, vi phạm các hành vi bị cấm trong đấu thầu quy định tại khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu; gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước khoảng 12,247 tỷ đồng.

Hành vi của các đối tượng đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau tiếp tục điều tra làm rõ.

PV

Cựu Bí thư Tỉnh uỷ Bình Dương biến đất “vàng” của Nhà nước vào tay tư nhân

Tổng Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Bình Dương (viết tắt là Tổng Công ty Bình Dương) là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước do Tỉnh uỷ Bình Dương là chủ sở hữu. Tất cả tài sản của Tổng Công ty Bình Dương được giao quản lý, sử dụng đều thuộc sở hữu Nhà nước.

Do đó, toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Bình Dương phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành đối với doanh nghiệp Nhà nước. Với vai trò là chủ sở hữu, trên cơ sở quy định của Luật Doanh nghiệp và các quy định của pháp luật về quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Tỉnh uỷ Bình Dương đã ban hành các quy định để quản lý và cùng với UBND tỉnh Bình Dương thực hiện trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước, tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo toàn vốn, tài sản, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu để xảy ra thất thoát vốn, tài sản Nhà nước tại Tổng Công ty Bình Dương.

Cựu Bí thư Tỉnh uỷ Bình Dương Trần Văn Nam.

Ông Trần Văn Nam (SN 1968 tại Hà Nội, cư trú tại phường Hiệp Thành, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương) giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương từ tháng 7/2010 đến tháng 12/2014. Từ tháng 1/2015 đến tháng 10/2015, ông Trần Văn Nam được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương. Từ tháng 10/2015 đến tháng 7/2021, ông Trần Văn Nam là Bí thư Tỉnh uỷ Bình Dương.

Theo cáo trạng của Viện KSND tối cao, trong giai đoạn giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, ông Trần Văn Nam đã ký Quyết định số 2631/QĐ-UBND ngày 28/9/2012 và Quyết định số 48/QĐ-UBND ngày 7/1/2013 về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất khu đất có diện tích 43ha và 145ha cho Tổng Công ty Bình Dương do bị can Nguyễn Văn Minh (SN 1955, cư trú tại phường 14, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh) làm Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng Giám đốc.

Với cương vị Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, trực tiếp phụ trách theo dõi và chỉ đạo về lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Bình Dương, ông Trần Văn Nam biết rõ tiền sử dụng đất là nguồn thu ngân sách Nhà nước; bảng giá trị đất hàng năm được UBND tỉnh Bình Dương ban hành trên cơ sở Nghị quyết của HĐND là căn cứ để tính tiền sử dụng đất.

Tuy nhiên, ngày 23/11/2012, ông Trần Văn Nam đã ký Công văn số 3444/UBND-KTN có nội dung: “Chấp thuận đơn giá đất để xác định tiền sử dụng đất cho khu dịch vụ do Tổng Công ty Bình Dương làm chủ đầu tư trong Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương với đơn giá đất bình quân 51.914 đồng/m2” theo đề nghị của các bị can thuộc Cục Thuế tỉnh Bình Dương và tham mưu của các bị can thuộc Văn phòng UBND tỉnh Bình Dương cho phép áp đơn giá đất từ năm 2006 để tính thu tiền sử dụng đất cho Tổng Công ty Bình Dương năm 2012. Biết rõ việc làm trên là trái quy định của pháp luật nhưng ông Trần Văn Nam vẫn quyết định ký ban hành. Từ nội dung quyết định trên dẫn đến hậu quả là gây thất thoát ngân sách Nhà nước số tiền hơn 761 tỷ đồng khi tính tiền thuế chước bạ, tiền sử dụng đất giao khu đất 43ha và khu đất 145ha cho Tổng Công ty Bình Dương.

Trong giai đoạn cổ phần hoá Tổng Công ty Bình Dương, với chức vụ Bí thư Tỉnh uỷ Bình Dương, ông Trần Văn Nam là người giữ chức vụ cao nhất đối với quyền chủ sở hữu. Ông Trần Văn Nam đã chủ trì tổ chức cuộc họp Thường trực Tỉnh uỷ để phê duyệt phương án sử dụng đất của Tổng Công ty Bình Dương tại Công văn số 470-CV/TU ngày 29/7/2016. Theo đó, khu đất 43ha và 30% vốn góp tại Công ty Tân Phú không bàn giao về Công ty Impco - là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước do Tỉnh uỷ Bình Dương quản lý. Tuy nhiên, tại cuộc họp của Thường trực Tỉnh uỷ Bình Dương ngày 17/4/2017, mặc dù biết Tổng Công ty Bình Dương đã chuyển nhượng khu đất 43ha cho Công ty Tân Phú, không bàn giao về Công ty Impco là trái chủ trương của Tỉnh uỷ và quy định của pháp luật, nhưng ông Trần Văn Nam đã không yêu cầu Tổng Công ty Bình Dương huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng, chuyển giao khu đất về cho Công ty Impco quản lý để bảo toàn vốn chủ sở hữu theo quy định, mà vẫn chỉ đạo và quyết định cho Tổng Công ty Bình Dương tiếp tục chuyển nhượng 30% vốn góp tại Công ty Tân Phú cho Công ty Âu Lạc (công ty do bị can Nguyễn Đại Dương, là con rể bị can Nguyễn Văn Minh điều hành) dẫn đến hậu quả là toàn bộ quyền quản lý của Nhà nước tại Dự án Khu đô thị Thương mại - Dịch vụ Tân Phú trên khu đất 43ha đã bị chuyển sang công ty tư nhân.

Để che giấu sai phạm của Tổng Công ty Bình Dương và trách nhiệm quản lý của chủ sở hữu, ông Trần Văn Nam tiếp tục chỉ đạo hợp thức hoá Công văn số 947-CV/TU đề ngày 19/5/2017 (thực tế công văn được lập vào tháng 10/2018) đính chính Thông báo số 287/TB-TU ngày 24/7/2017 và Công văn số 477-CV/TU đề ngày 29/8/2016 (thực tế công văn được lập vào tháng 3/2019) điều chỉnh Công văn số 407-CV/TU ngày 29/7/2016 làm sai lệch bản chất nội dung phê duyệt chi tiết phương án sử dụng đất của chủ sở hữu là Tỉnh uỷ Bình Dương tại Công văn số 407-CV/TU ngày 29/7/2016. Hành vi của ông Trần Văn Nam cùng các đồng phạm dẫn đến hậu quả gây thất thoát cho Nhà nước số tiền gần 985 tỷ đồng.

Viện KSND tối cao xác định, trong vụ án này, ông Trần Văn Nam phải chịu trách nhiệm chính về những quyết định và chỉ đạo của mình dẫn đến hậu quả gây thiệt hại đặc biệt lớn tài sản của Nhà nước. Với những sai phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như trên, ngày 8/7/2021, ông Trần Văn Nam bị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành quyết định cách tất cả các chức vụ trong Đảng các nhiệm kỳ.

Tiếp đó, ngày 9/8/2021, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Bình Dương ban hành quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với ông Trần Văn Nam. Ông Trần Văn Nam bị bắt tạm giam từ ngày 27/7/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc. Viện KSND tối cao truy tố ông Trần Văn Nam về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” quy định tại khoản 3, Điều 219 BLHS.

Nguyễn Hưng - 

Học tập, làm theo phong cách ứng xử của Bác là trực tiếp đấu tranh với các luận điểm xuyên tạc, bôi nhọ

Sức mạnh của CAND là ở sự gắn bó mật thiết, giúp đỡ thường xuyên của nhân dân; do đó các thế lực thù địch luôn luôn tìm mọi cách bôi nhọ, nói xấu để hạ thấp uy tín và li gián Công an với nhân dân. Trước tình hình đó, học tập, làm theo phong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp để cán bộ, chiến sĩ CAND đấu tranh hiệu quả với mọi hình thức xuyên tạc, nói xấu.

Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị nhân văn, tinh túy nhất trong truyền thống văn hóa của dân tộc và của nhân loại. Để có được phong cách ứng xử đó, bên cạnh sự xuất thân từ một gia đình truyền thống yêu nước, thương dân, với tài năng trí tuệ bẩm sinh và trong bối cảnh lịch sử dân tộc đang bị đọa đầy trong kiếp nô lệ, còn là thành quả của việc Người đã bôn ba khắp năm châu, bốn bể để học hỏi, tu dưỡng, rèn luyện. Nhờ đó, mọi lời nói và hành động của Hồ Chí Minh đều toát lên sự thân thiện, gần gũi, nghĩa tình, nồng hậu, rất đỗi chân thành, lịch thiệp, nhưng cũng đầy uy lực và cương nghị.

Điểm nổi bật trong phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh, trước hết trong việc ứng xử với bản thân. Người đã lấy “tu thân” của Nho học làm đầu trong sự nghiệp của mỗi con người. Tu thân là luôn nghiêm khắc với bản thân mình, sửa chữa những thiếu sót, không bảo thủ để nhận rõ sai sót nhằm hoàn thiện bản thân. Hồ Chí Minh thấm đẫm tư tưởng đó, đã tự ứng xử rất nghiêm khắc với bản thân trên mọi phương diện, chính Người đã tự làm cho bản thân mình lớn lên về trí tuệ, về tâm hồn, về lý tưởng; trong mọi tình huống dù là lúc gian nan, nguy khốn hay những cám dỗ tầm thường đều không bị lung lay, lệch lạc về tinh thần và thể xác.

Hai là, ứng xử đối với nhân dân, đối với bạn bè. Người luôn tôn trọng, yêu thương con người. Việc Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời để đi tìm độc lập, tự do cho dân tộc; hạnh phúc, ấm no cho nhân dân; hòa bình, đoàn kết, hữu nghị cùng phát triển cho nhân loại thể hiện phong cách ứng xử đó. Trong quá trình thực hiện mục tiêu, lý tưởng lớn lao ấy, Người luôn chân tình, gần gũi, thân thiện với nhân dân, với bạn bè. Người đã viết: “Cách cư xử, đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ”1. Cho nên, Người luôn được đón nhận như người thân trong các gia đình, như người cha, người bác trong mỗi dòng họ; nhờ đó đã có cả một dân tộc lấy tên của Người để làm dòng họ cho dân tộc.

Trong ứng xử với nhân dân và bạn bè, Hồ Chí Minh luôn rất mực giản dị, khiêm tốn và lịch thiệp: “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt”2.  Đồng thời ứng xử linh hoạt, chủ động, biến hóa. Hồ Chí Minh được nhân dân và bạn bè quốc tế mến mộ, nể phục bởi sự linh hoạt, tinh tế, luôn chủ động và biến hóa trong ứng xử.

Ba là, trong ứng xử với kẻ địch, với những người lầm đường lạc lối, Hồ Chí Minh luôn cương quyết nhưng cũng rất khoan dung, độ lượng. Người đã viết: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù”3 từ mục tiêu ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác. Nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ tất cả những cuộc đấu tranh chống xâm lược và bảo vệ hòa bình thế giới”4.

Bốn là, trong ứng xử với công việc luôn siêng năng, tận tụy. Chỉ hai bàn tay trắng ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân; hy sinh cả cuộc đời vì nước, vì dân. Kết quả là Người đã gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền bá con đường cách mạng đó về Việt Nam. Dưới sự sáng lập và lãnh đạo của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập cho dân tộc, thống nhất nước nhà, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và đang phát triển để sánh vai với các cường quốc năm châu như ngày nay.

Trong thời gian qua, toàn lực lượng CAND đã thường xuyên học tập, làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhờ đó luôn được nhân dân tin yêu, giúp đỡ và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Tuy nhiên trong ứng xử của một số cán bộ, chiến sĩ, ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa thực sự làm cho nhân dân hài lòng, để lại những hình ảnh chưa thực sự mẫu mực. Các thế lực thù địch đã lợi dụng những thiếu sót đó để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của CAND, li gián giữa Công an với nhân dân. Do đó toàn lực lượng cần xây dựng phong cách ứng xử theo phong cách Hồ Chí Minh như sau:

Thứ nhất là, xây dựng ý thức tự học tập, tự rèn luyện thường xuyên cho cán bộ, chiến sĩ trong ứng xử đối với bản thân.

Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải biết nghiêm khắc với bản thân, qua đó, một mặt tự mỗi cán bộ, chiến sĩ vừa biết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và những ham muốn cá nhân; mặt khác vừa có tri thức, có sức khỏe, có kinh nghiệm để giải quyết hiệu quả các công việc được giao. Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển như ngày nay đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc tự học tập và rèn luyện của mọi cán bộ, chiến sĩ, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần phát động các phong trào để khuyến khích cán bộ, chiến sĩ tự học tập, rèn luyện trau dồi đạo đức, lối sống theo phong cách ứng xử với bản thân của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã dạy CAND, “đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đó chính là chuẩn mực để cán bộ, chiến sĩ ứng xử với bản thân. Qua đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ biết yêu mình, cũng là biết yêu người khác, biết yêu công việc là biết đổi mới, sáng tạo trong công việc; biết tiết kiệm của cải và thời gian, liêm khiết không bị mặt trái của kinh tế thị trường cám dỗ, việc đúng nếu nhỏ cũng phải làm bằng được, nếu sai dù nhỏ cũng phải tránh... thì sẽ đạt đến các giá trị chân - thiện - mỹ trong ứng xử, khi đó sẽ được bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân tin tưởng, quý trọng và giúp đỡ hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Thứ hai là, xây dựng phong cách ứng xử chân tình, gần gũi, thân thiện; giản dị, khiêm tốn và lịch thiệp; linh hoạt, chủ động, biến hóa cho cán bộ, chiến sĩ trong ứng xử với nhân dân, bạn bè, đồng nghiệp.

Cán bộ, chiến sĩ CAND thường xuyên phải tiếp xúc với nhân dân, do đó phong cách ứng xử với nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan trọng, qua đó vừa biểu hiện bản chất của CAND, vừa quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của toàn lực lượng. Đối với nhân dân, bạn bè, đồng nghiệp, CAND cần ứng xử chân tình, gần gũi, thân thiện, thực sự là chỗ dựa để mọi người yên tâm lao động, sản xuất và sinh hoạt sẽ tạo được niềm tin đối với nhân dân, bạn bè, đồng nghiệp. Khi đó, nhân dân, bạn bè, đồng nghiệp sẽ là chỗ dựa vững chắc của mỗi cán bộ, chiến sĩ và của toàn lực lượng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh đã dạy CAND trong ứng xử với nhân dân phải “kính trọng, lễ phép”, nghĩa là cách xưng hô đúng mực, là thái độ cầu thị, hòa nhã với nhân dân; biết kính già, yêu trẻ. Đối với đồng nghiệp theo Hồ Chí Minh, "Phải thân ái, giúp đỡ", nghĩa là phải thương yêu, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau, sống với nhau có tình, có nghĩa, thân ái giúp đỡ với đồng chí, đồng đội cùng chiến đấu, cùng lực lượng và cả những người cùng chung mục đích, lý lưởng vì độc lập, tự do của Tổ quốc và cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân.

Trong bối cảnh mới, do tác động từ môi trường xã hội, từ cuộc sống, một số cán bộ, chiến sĩ đã tự vượt khỏi phạm vi quy định của điều lệnh, nội vụ, đã sống xa hoa, lãng phí; cầu kì, kiểu cách; muốn thể hiện hơn người khác, nhất là trong các khu dân cư, điều đó đã làm mất đi hình ảnh đẹp, phong cách ứng xử nhân văn của toàn lực lượng. Cho nên, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự rèn luyện cho mình phong cách ứng xử giản dị, khiêm tốn và lịch thiệp.

Nhân dân, bạn bè, đồng nghiệp đều có thể bị thay đổi rất nhanh theo các chiều hướng do sự tác động của mặt trái của cơ chế thị trường và công nghệ hiện đại, do đó cán bộ, chiến sĩ CAND phải ứng xử linh hoạt, chủ động, biến hóa trong mọi tình huống, để một mặt ứng xử phù hợp với những phát sinh mới với cả những yếu tố tích cực hoặc tiêu cực của nhân dân, bạn bè và đồng nghiệp; mặt khác là để giữ mình, không bị cuốn theo những cái xấu, cái thấp hèn từ xã hội, người thân, bạn bè…

Thứ ba là, xây dựng phong cách ứng xử cương quyết nhưng cũng rất khoan dung, độ lượng với các đối tượng đấu tranh, lầm đường lạc lối.

Cán bộ, chiến sĩ phải có thái độ cương quyết, cứng rắn, tinh thần vững vàng, không thỏa hiệp, không nhân nhượng, không để tội phạm mua chuộc, dụ dỗ; cương quyết không để kẻ địch phá hoại, bọn tội phạm xâm hại đến lợi ích quốc gia và lợi ích của nhân dân. “Đối với những người không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá, khoan dung, không nên bắt bớ lung tung, không nên tịch thu vô lý, làm cho dân kinh khủng”5.

Thứ tư là, xây dựng phong cách ứng xử siêng năng, tận tụy với công việc cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng.

Chỉ có siêng năng, tận tụy trong công việc mới đúc kết cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trưởng thành trong nhân cách, mới tạo được uy tín trong đồng chí, đồng đội và trong nhân dân, khi đó mới trưởng thành trong sự nghiệp. Điều quý trọng nhất như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói là: Cái còn mãi với thời gian là danh dự, trọng liêm, trọng chính, trọng đức. Còn vật chất chỉ là phù vân....

Hiện nay, mặt trái của kinh tế thị trường tác động rất mạnh vào lợi ích cá nhân, điều đó rất dễ làm lung lay, giao động về đạo đức, lối sống, hành vi ứng xử của một số cán bộ, chiến sĩ. Trước tình hình đó, cần đẩy mạnh công giáo dục giúp cho cán bộ, chiến sĩ phải biết tự vấn lương tâm để điều chỉnh hành vi ứng xử với bản thân, với nhân dân, đồng chí, đồng đội.

Cán bộ, chiến sĩ phải biết dừng, biết đủ, biết trăn trở, suy nghĩ trước những lợi ích, trước các hành vi, để ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống và khi đó sẽ trở thành tấm gương xấu, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và quần chúng vào lực lượng CAND.

Do đó, cần quán triệt nội dung công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đại hội lần thứ XIII của Đảng trong công tác xây dựng lực lượng trong tình hình hiện nay: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”6.

PGS,TS. Vi Thái Lang - Học viện Chính trị CAND

(1) Sđd, tập 5, tr 117

(2) Sđd, tập 5, tr 117

(3) Sđd, tập 9, tr 264

(4) Sđd, tập 10, tr 11

(5) Sđd, tập 4, tr 19

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật,

Hà Nội, 2021, tập 1, tr.178 

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022

Bài 2: Tiếp dân không thể ủy quyền

Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh trách nhiệm của bí thư cấp ủy các cấp phải "trực tiếp thực hiện việc tiếp dân, kịp thời đối thoại với dân khi cần thiết và xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân theo thẩm quyền" nhằm khắc phục những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, nhiều bí thư cấp ủy các cấp đã quyết tâm khắc phục mọi rào cản để trực tiếp lắng nghe dân, nhưng vẫn còn tình trạng cáo "bận công tác" để không chấp hành Quy định 11.

Tiếp dân không nghỉ trưa

"Tiếp dân không nghỉ trưa" là phương châm mà Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ thực hiện trong công tác tiếp dân. Định kỳ vào tuần thứ 3 hằng tháng, trụ sở tiếp công dân tỉnh Bến Tre (số 600-B9 Nguyễn Thị Định, khu phố 7, phường Phú Khương, TP Bến Tre) lại đón công dân dự buổi tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng của tỉnh đã quen với việc tiếp dân cả trưa, hoặc tiếp một người, cùng một vụ việc nhiều lần, tiếp cho đến khi hết công dân đăng ký gặp. Gần đây nhất, ngày 20-7-2022, đồng chí Lê Đức Thọ đã tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của 48 công dân.

Một cuộc tiếp công dân của đồng chí Lê Đức Thọ, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. 

Gặp gỡ, lắng nghe, chỉ đạo phương hướng giải quyết nguyện vọng của 48 công dân trong một ngày là số lượng lớn. Để có thể làm được điều đó, Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng phải làm việc liên tục từ 7 giờ 30 phút và kết thúc lúc 17 giờ 15 phút cùng ngày. Các công đoạn chuẩn bị cho buổi tiếp công dân phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong suốt thời gian tiếp dân, tất cả chỉ có 30 phút buổi trưa để ăn uống, xử lý các công việc cá nhân rồi lại tiếp tục làm việc.

Theo đồng chí Võ Thanh Tùng, Phó trưởng ban Tiếp công dân tỉnh Bến Tre: Tiếp dân là việc làm thường xuyên của Bí thư Tỉnh ủy. Lãnh đạo, cán bộ, nhân viên các cơ quan chức năng tham gia buổi tiếp cũng theo đó mà “ai có gì thì dùng nấy”, người thì ăn bánh mì, người thì ăn đồ ăn từ nhà mang đi. Tất cả làm việc với tinh thần theo đồng chí Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo: Phải lắng nghe, tiếp thu toàn bộ ý kiến của người dân. Không để xảy ra tình trạng người dân đã tìm đến gặp Bí thư Tỉnh ủy nhưng lại phải ra về vì không đủ thời gian.

Với tinh thần trên, kể cả những công dân tới nhiều lần, cùng một sự việc, dù có kết luận của các cơ quan chức năng là đã xử lý đúng quy định của pháp luật, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre vẫn gặp, kiên trì lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Đơn cử như trường hợp ông Trần Hồng Lạc (121/3, lộ số 4, phường 4, TP Bến Tre) có ý kiến khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai. Ông Trần Hồng Lạc cho biết đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp xúc nhiều lần.

Trước đó, ngày 6-5-2021, Tỉnh ủy Bến Tre có Công văn số 36-CV/TU trả lời ông Trần Hồng Lạc rất cụ thể: “Nội dung khiếu nại của ông, cơ quan chức năng của tỉnh đã giải quyết đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật và không có cơ sở để xem xét lại”. Tuy nhiên, ông Lạc vẫn không đồng tình, tiếp tục nhiều lần tìm gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy để bày tỏ nguyện vọng. Từ đầu năm 2022 đến hết tháng 7-2022, tại các buổi tiếp công dân của Bí thư Tỉnh ủy, ông Lạc đã gặp, trình bày nguyện vọng với đồng chí Lê Đức Thọ tổng cộng 6/7 buổi (chỉ trừ buổi tiếp tháng 2 là ông vắng mặt). Tuy đã nắm rõ tình hình, kết quả xử lý vụ việc, nhưng đồng chí Lê Đức Thọ vẫn gặp, lắng nghe, ghi nhận ý kiến của ông Lạc, xem có tình tiết mới sẽ chỉ đạo xử lý. Được biết, từ đầu năm 2021 đến hết tháng 6-2022, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ đã tiếp dân 18 cuộc, với 48 lượt/141 công dân, giải quyết dứt điểm 77 vụ việc, 16 vụ việc đang tiếp tục giải quyết.

Chủ động lắng nghe nguyện vọng của công dân, không ủy quyền trong công tác tiếp dân cũng là quyết tâm của Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Lê Thị Thủy để thực hiện nghiêm Quy định 11. Đồng chí Ngô Văn Khiển, Phó trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Hà Nam cho biết: "Trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều vụ việc công dân dù đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp, các kiến nghị đã được chỉ đạo giải quyết theo đúng quy định nhưng công dân vẫn nhiều lần đến tìm gặp để tiếp tục bày tỏ nguyện vọng. Những trường hợp ấy, đồng chí Lê Thị Thủy đều trực tiếp gặp gỡ, lắng nghe, thậm chí đến tận địa bàn để nắm tình hình thực tế".

Không chỉ là tiếp dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về phong cách làm việc gần dân, trọng dân, luôn lắng nghe và giải quyết kịp thời mọi ý kiến của nhân dân. Trong vòng 10 năm (1955-1965), tuy tuổi cao, công việc bề bộn, Người vẫn thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... Người đi khắp mọi nơi để thăm hỏi đồng bào và chiến sĩ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính trung bình mỗi tháng, Người đi thăm, kiểm tra cơ sở 5 lần.

Gần dân thì có nhiều cách, mà một trong những cách để gần dân chính là làm tốt công tác tiếp dân. Cũng là tiếp dân, nắm tình hình người dân, lắng nghe dân, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú và Thanh Hóa Lê Huy Ngọ lại chọn cách: “Bà con cứ ở đó, tôi xuống với bà con, lắng nghe bà con”. Đến tận nơi lắng nghe người dân cũng là cách mà nhiều bí thư cấp ủy đang áp dụng.

Năm 2017, chúng tôi cùng đoàn công tác của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Dương Văn Trang (nay là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum) thăm làng Pyầu (một làng đặc biệt khó khăn của tỉnh Gia Lai) trong hai ngày. Tại đây, đồng chí Dương Văn Trang quyết định ngủ lại nhà trưởng bản để hôm sau tiếp tục tiếp dân. Đồng chí đề nghị người dân trong làng nói hết mọi tâm tư, nguyện vọng để cùng bàn hướng giải quyết. Hiện trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum, đồng chí Dương Văn Trang vẫn giữ thói quen tổ chức nhiều buổi đến tận nơi gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của người dân. Ở làng, bản nào bà con nhiều ý kiến, đồng chí ngủ lại tại đó, sẵn sàng lắng nghe người dân phản ánh cả buổi tối và ngày hôm sau. Mới đây, chuyến làm việc tại thôn Làng Mới (xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei) ngày 20-6-2022 là một lần như vậy.

Một ngày giữa tháng 7-2022, chúng tôi đến xã Nghĩa Hòa (Lạng Giang, Bắc Giang). Tuy không phải ngày tiếp công dân định kỳ nhưng đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy xã vừa tiếp một trường hợp phản ánh liên quan đến việc hiến đất làm đường nông thôn mới diễn ra từ năm 2017. Là người địa phương, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn cũng hiểu rõ câu chuyện vốn không phức tạp hay sai phạm gì nên sau khi cùng uống một ấm trà, vừa chuyện trò tình làng nghĩa xóm, vừa giải thích, phân tích được-mất... công dân vui vẻ ra về, không gửi đơn thư nữa, tình làng nghĩa xóm cũng được giữ êm đẹp.

Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn quan niệm, cấp xã là cấp gần dân nhất nên nếu đồng chí Bí thư Đảng ủy sâu sát, gần dân sẽ thuận lợi giải quyết những vấn đề từ khi mới phát sinh, tránh dẫn đến vụ việc phức tạp, vượt cấp. Theo Quy định 11 thì người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân định kỳ 2 lần mỗi tháng, nhưng ở xã Nghĩa Hòa, Bí thư Đảng ủy xã tiếp dân định kỳ vào ngày thứ năm hằng tuần. Chúng tôi còn tình cờ biết chuyện tháng 6 vừa qua, ngày tiếp công dân trùng với ngày giỗ bố đẻ đồng chí Nguyễn Văn Tuấn. Thế là, theo đề xuất của anh, gia đình dời ngày cúng giỗ vào chủ nhật để không ảnh hưởng tới việc tiếp công dân tại trụ sở.

Những câu chuyện kể trên chỉ là số ít ví dụ cho thấy quyết tâm, hiệu quả từ công tác tiếp công dân của người đứng đầu cấp ủy. Hơn thế, đó còn là sự chủ động của người đứng đầu cấp ủy để gần dân, hiểu dân hơn.

Còn nhiều nơi làm chưa tốt

Tuy nhiên, cũng qua khảo sát, thực tế ở nhiều địa phương, việc thực hiện Quy định 11 nói chung và việc tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy nói riêng vẫn còn nơi, còn lúc chưa được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.

Theo Báo cáo số 162-BC/BNCTW ngày 16-6-2022 của Ban Nội chính Trung ương về kết quả thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, Chỉ thị số 27-CT/TW và Quy định số 11-QĐi/TW, trong năm 2021, về số cuộc tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, chỉ có 16 tỉnh tiếp đủ ít nhất 1 cuộc trong tháng (12 lần), 5 tỉnh không có số liệu, 14 tỉnh tiếp từ 1 đến 3 cuộc/năm, 15 tỉnh tiếp từ 4 đến 11 cuộc/năm, đặc biệt có 13 tỉnh không tiếp cuộc nào. Báo cáo cũng nêu rõ hạn chế: "Còn có tình trạng buông lỏng, "khoán trắng" cho cơ quan chức năng và cấp dưới”.

Ninh Bình là một địa phương sớm có quy chế của Tỉnh ủy về việc tiếp dân ngay sau khi Bộ Chính trị khóa XII ban hành Quy định 11. Tỉnh ủy Ninh Bình cũng thực hiện tốt việc công khai lịch tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trên cổng thông tin điện tử của tỉnh. Tuy nhiên, theo dõi 7 tháng đầu năm 2022, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình chỉ tiếp dân được 1 buổi vào tháng 3; 6 tháng còn lại đều ủy quyền cho người khác thực hiện. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở không ít địa phương trên cả nước, nhất là cấp tỉnh và cấp huyện.

Quy định 11 quy định rõ người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải trực tiếp tiếp dân định kỳ ít nhất 1 ngày trong 1 tháng và thực hiện tiếp dân đột xuất trong các trường hợp quy định. Mục đích của quy định này nhằm thiết lập một chế tài để người đứng đầu cấp ủy không thể thoái thác việc tiếp dân. Nhưng, thực tế ở nhiều địa phương, bí thư tỉnh ủy ủy quyền cho thành viên khác trong ban thường vụ tỉnh ủy hoặc trưởng ban nội chính tiếp dân, hoặc thường xuyên, hoặc trong một số lần cụ thể. Cũng có nơi, trước ngày tiếp dân định kỳ thì có thông báo hoãn, hủy. Lý do, nếu có, được đưa ra trong các trường hợp trên thường là do đồng chí bí thư tỉnh ủy, huyện ủy bận việc đột xuất.

Cũng theo Quy định 11, thời gian, địa điểm tiếp dân phải được thông báo trên trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức (nếu có) và trụ sở làm việc của người đứng đầu cấp ủy hoặc địa điểm tiếp dân. Hầu hết các địa phương có thông báo theo năm, hoặc từng tháng cụ thể trên cổng thông tin điện tử của tỉnh, đảng bộ tỉnh, báo địa phương. Trong thời đại công nghệ như hiện nay, phải khẳng định rằng đó là những kênh thông tin nhanh chóng và gần gũi với mỗi người dân. Tuy nhiên, ở không ít địa phương, thông tin về thời gian, địa điểm tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, huyện ủy không được đăng tải thường xuyên. Điều này cũng khiến người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa gặp khó khăn trong nắm bắt thông tin chính xác và khó khăn trong việc tiếp cận các buổi tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, huyện ủy.

Ở một số địa phương, sau tiếp công dân, còn có tình trạng việc chỉ đạo giải quyết và nắm bắt tình hình giải quyết vụ việc cho công dân của bí thư cấp ủy chưa sát sao, khiến thời gian kéo dài so với kết luận, gây bức xúc cho người dân. Hay như tình trạng đùn đẩy trách nhiệm vẫn xảy ra ở một số địa phương. Ông P.V.L (xin được giấu tên), một người chúng tôi gặp qua nhiều cuộc gặp bí thư tỉnh ủy, phản ánh: “Tôi đã được gặp bí thư tỉnh ủy ngày 26-6-2019, được đồng chí lắng nghe, sau đó chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thanh tra tỉnh xem xét, rà soát, xử lý các kiến nghị và trả lời tôi. Tuy nhiên, tôi không nhận được câu trả lời của cơ quan chức năng. Tôi đã nhiều lần gửi đơn xin gặp bí thư tỉnh ủy thêm để cập nhật thông tin nhưng không được, thậm chí có mặt ở trụ sở tiếp công dân tỉnh những hôm bí thư có lịch tiếp công dân, nhưng không được ban tiếp công dân tỉnh chấp nhận cho gặp bí thư tỉnh ủy vì lý do “được gặp một lần thôi”.

Những hạn chế, tồn tại ấy cần sớm được khắc phục, giải quyết để nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy các cấp nói riêng, việc thực hiện Quy định 11 nói chung; cũng là để kéo gần khoảng cách giữa người đứng đầu cấp ủy và người dân.

(còn nữa)

Bài và ảnh: DƯƠNG HÒA - HOÀNG VIỆT

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2022

Phát huy giá trị văn hóa đạo đức của con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

TCCS - Phát huy giá trị văn hóa đạo đức của con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được nhấn mạnh ở các nội dung: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân; nguồn lực con người và lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tinh thần đại đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng và đoàn kết quốc tế cao cả; sự khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo...

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm và tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Giới tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam_Ảnh: TTXVN

Giá trị văn hóa đạo đức là bộ phận của hệ giá trị văn hóa, biểu hiện ở hành vi đạo đức của con người. Giá trị văn hóa đạo đức là hệ thống chuẩn mực được xã hội thừa nhận và được biểu hiện trong hành vi ứng xử của con người, với tự nhiên, với xã hội (giữa con người với con người). Giá trị văn hóa đạo đức trước hết là một bộ phận của hệ giá trị văn hóa.

Xét ở góc độ giá trị, đây là một hệ thống các giá trị được hình thành và phát triển trong suốt quá trình sinh sống, hoạt động của con người. Đó là, lý tưởng nhân đạo, lối sống nhân đạo; hòa bình, hòa hợp, dân chủ, công bằng; bình đẳng, công lý, nhân quyền, dân quyền; lòng nhân ái, vị tha, tính lương thiện; sáng tạo, tự giác, tự trọng, thận trọng; vẻ đẹp tâm hồn, yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường,...

Xét ở góc độ truyền thống, giá trị văn hóa đạo đức là hồn cốt dân tộc, là lương tri, đạo lý, là tuyên ngôn, tiếng nói, chữ viết riêng của một dân tộc; là vẻ đẹp đạo đức của mỗi cá nhân trong tổng thể môi trường chung sống hòa bình, hòa hợp và hạnh phúc của đất nước. Giá trị đó không hòa tan khi hội nhập quốc tế, mà vẫn giữ được cốt cách, hồn cốt truyền thống văn hóa của dân tộc.

Xét ở góc độ lịch sử, là đặc tính dân tộc được hình thành và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”(1). Đây là một giá trị văn hóa đạo đức xã hội cao quý xuất phát từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”(2). Sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước là động lực to lớn của mỗi người dân Việt Nam, bởi mỗi người dân “đã hy sinh tiểu gia đình của họ, họ đã không ngại rời cha mẹ, bỏ quê hương, ra xông pha bom đạn, để phụng sự đại gia đình dân tộc gồm cả gia đình của mỗi đồng bào”(3). Chính vì thế, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(4).

Trước tình hình mới và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giá trị văn hóa đạo đức càng cần được quan tâm bồi dưỡng, giáo dục để phát triển, hội nhập nhưng không hòa tan, không làm mất đi bản sắc, hồn cốt truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Vì thế, phát huy giá trị văn hóa đạo đức con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung vào một số vấn đề:

Một là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân.

Yêu nước là lý tưởng thiêng liêng, lẽ sống cao đẹp, là tình cảm chủ đạo và định hướng giá trị cho hành động và cách ứng xử của con người Việt Nam. Đây là giá trị tiêu biểu hàng đầu trong giá trị văn hóa đạo đức của dân tộc ta.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cần nhìn nhận từ phương diện giá trị văn hóa đạo đức thì mới thấy hết được lương tri của cả dân tộc trong đó. Chủ nghĩa yêu nước phản ánh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, là hệ thống quan điểm, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, yêu mến và gắn bó tha thiết với quê hương; ý chí và hành động của con người Việt Nam đối với đất nước; lòng tự hào, tự tôn dân tộc được hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; biểu hiện ở tình yêu quê hương, xứ sở, sự cống hiến sức lực, trí tuệ, trở thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy mỗi người dân Việt Nam phấn đấu vì sự trường tồn, phồn vinh của đất nước.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ”(5). Vì vậy, muốn phát huy giá trị văn hóa đạo đức con người Việt Nam cần phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

Giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống và lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ (Trong ảnh: Chiến sĩ Điện Biên kể chuyện)_Nguồn: vapa.org.vn

Ngày nay, yêu nước phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, phải thể hiện ở lòng tự hào, tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam, dù có đi đâu, ở đâu, cũng luôn có tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước và đều có tinh thần kiên quyết, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giá trị đó không phai mờ, không hề mất đi cùng với thời gian và không bị “hòa tan” trong quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy, cần phải bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống, niềm tin, ý chí quyết tâm, tình cảm, thôi thúc người dân hành động tự giác, thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng.

Hai là, khơi dậy tối đa nguồn lực con người Việt Nam, nhất là nguồn lực cán bộ, đảng viên.

Để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phải khơi dậy tối đa nguồn lực con người, coi con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, cần phải khơi dậy các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo, quyền làm chủ của nhân dân và phát huy tối đa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, một mặt, phải đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, để thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, phải đẩy mạnh công tác tư tưởng, vừa kịp thời, chính xác, định hướng dư luận xã hội, vừa mang tính thuyết phục cao, giải đáp kịp thời, sáng tỏ và khoa học những vấn đề thực tiễn đặt ra, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Tuyệt đối trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ nhân dân, quên mình vì quê hương, vì nhân dân, vì đất nước là một trong những giá trị văn hóa đạo đức. Lòng trung thành đó được biểu hiện ở sự giác ngộ sâu sắc và quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, lấy đó làm mục đích hoạt động của mình, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng đội; luôn có ý thức cộng đồng, đặt lợi ích của Đảng của Tổ quốc, lên trên lợi ích cá nhân; kiên quyết chống bệnh quan liêu, gia trưởng, cửa quyền, thói kiêu ngạo, ức hiếp quần chúng và cấp dưới; hy sinh lợi ích cá nhân phục vụ cho lợi ích chung; có lối sống “mình vì mọi người”; gương mẫu trước quần chúng. Lòng trung thành đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Trung với nước, hiếu với dân”; “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, biết yêu thương con người, có tình cảm quốc tế trong sáng...”(6).

Ba là, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng và đoàn kết quốc tế cao cả.

Đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng là một trong những giá trị văn hóa đạo đức Việt Nam, phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp trong đánh giặc, giữ nước của nhân dân ta, thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do... Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn”(7). Chỉ có đoàn kết mới giành được thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn, gian khổ bao nhiêu lại càng cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu; chỉ có đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn, đưa đất nước phát triển. Không chỉ đoàn kết dân tộc trong đấu tranh giải phóng đất nước, mà phải đoàn kết trong mọi giai đoạn phát triển của cách mạng, tạo thành khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn thị: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”(8).

Sau hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, chính là do khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được phát huy. Nhờ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đang vượt qua mọi khó khăn, thách thức, để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Một mặt, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục.

Bốn là, khơi dậy đức tính khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo của nhân dân và khát vọng phát triển đất nước.

Người Việt Nam có truyền thống khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, trong chiến đấu và lao động, sản xuất. Giá trị đó luôn được mỗi người dân phát huy trong cuộc sống thường ngày, trong sự nghiệp cách mạng chung, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể lên trên hết, trước hết; luôn sống “vì mọi người”, vì đồng chí, đồng đội; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ. Đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”(9).

Khát vọng chiến thắng_Nguồn: vnexpress.net

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(10). Khát vọng đó càng trở nên mạnh mẽ, cháy bỏng hơn bao giờ hết trên cơ sở đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Mặt khác, trên thế giới, tình hình diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường; trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. “Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra”(11). Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, khả thi, nổi bật là tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự cường, niềm tin, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn để phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao như Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Để phát huy giá trị văn hóa đạo đức Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 8-5-2021, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Hành động đúng tôn chỉ, mục đích của Đảng, để khi gặp khó khăn, gian khổ thì không nản chí, lùi bước; khi thuận lợi, thành công vẫn luôn giữ vững tinh thần khiêm tốn, luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. /.

------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 44

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 401

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 335

(4) Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 136

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XXVII

(7) Hồ Chí Minh:  Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 256

(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 600

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 111, 107-108.

Bí thư cấp ủy chống bệnh xa dân

LTS: Xa dân là biểu hiện cụ thể của bệnh quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm bậc nhất đối với cán bộ lãnh đạo.

Để phòng, chống căn bệnh này, ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 11-QĐi/TW về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân (Quy định 11).

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, Quy định 11 đã giúp đội ngũ bí thư cấp ủy khắc phục biểu hiện thiếu sâu sát thực tế cơ sở, xa dân như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng Đảng đã nêu. Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã làm việc với 17 địa phương cấp tỉnh; tìm hiểu, khảo sát hơn 20 địa phương khác về công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy theo Quy định 11.

Bài 1: "Liều thuốc" đặc hiệu của Đảng

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi việc gần dân, công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Quy định 11 trở thành thiết chế bắt buộc bí thư cấp ủy phải dành thời gian tiếp dân. Đây được coi như "liều thuốc" đặc hiệu vừa phòng, vừa chống bệnh xa dân.

Nếu không tiếp dân làm sao biết!

Một ngày đầu tháng 6-2022, chúng tôi gặp bà Hoàng Thị Phương (tổ 2, phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) ngay trên đoạn đường mới được đổ bê tông rộng rãi, sạch đẹp trước nhà. Giọng bà Phương không giấu nổi sự xúc động khi kể về “sự tích” của đoạn đường này. Gia đình bà và một số hộ khác nguyên là cán bộ Bệnh viện Điều dưỡng Thái Nguyên (nay là Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Thái Nguyên), được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tổ 17 (nay là tổ 8), phường Trưng Vương từ năm 1998.

Thế nhưng, 23 năm kể từ khi được cấp đất, các hộ dân vẫn chưa có đường vào để xây dựng, sử dụng mảnh đất thuộc sở hữu của mình dù đã nhiều lần phản ánh ý kiến đến cơ quan chức năng từ phường tới tỉnh.

 Đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên (bên trái) đến thăm bà Hoàng Thị Phương và các hộ dân, kiểm tra tình hình giải quyết vụ việc sau tiếp công dân tại phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên.

Vụ việc diễn ra ngay giữa trung tâm TP Thái Nguyên, cách trụ sở Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thái Nguyên chỉ vài trăm mét. Ấy vậy mà phải mất tới 23 năm những ý kiến của bà Phương và các hộ dân nơi đây mới được giải quyết, qua buổi tiếp công dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải. Vài tháng sau buổi tiếp công dân, đường vào khu đất đã được hoàn thành. Hôm đồng chí Nguyễn Thanh Hải đến thăm các hộ dân và kiểm tra tình hình thi công đoạn đường, bà Phương chỉ biết nắm chặt tay nữ Bí thư Tỉnh ủy, xúc động nói lời cảm ơn.

Cũng là vụ việc kéo dài nhiều năm, qua buổi tiếp công dân định kỳ của Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang Dương Văn Thái mới đây, vụ việc tranh chấp quyền thờ cúng liệt sĩ kéo dài 10 năm giữa gia đình ông Nguyễn Văn Nắm (em trai liệt sĩ Nguyễn Văn Được) và anh Nguyễn Văn Bao (cháu ruột liệt sĩ Nguyễn Văn Được) cũng mới được giải quyết dứt điểm, hợp tình, hợp lý và nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, cán bộ địa phương.

Đồng chí Dương Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, từ câu chuyện thực tế ở địa phương đã cho biết: “Thực tế qua các buổi đối thoại với người dân, nhiều vấn đề được giải quyết dứt điểm, như vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự tại xã Ia Chim, TP Kon Tum; giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách và công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ phụ nữ, trẻ em của tỉnh; kịp thời tháo gỡ những khó khăn liên quan đến việc phát triển kinh tế-xã hội, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở huyện Đăk Glei; giải quyết chế độ, chính sách cho người dân và chỉ đạo thanh tra về phản ánh của người dân liên quan đến công tác quy hoạch, xây dựng trên địa bàn thị trấn Đăk Hà...”.

Qua việc thực hiện nghiêm Quy định 11, năm 2021, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phan Văn Mãi (nay là Phó bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh) đã nắm bắt những hạn chế của cấp ủy, chính quyền qua tiếp xúc, phản ánh của người dân. Xã Tường Đa (huyện Châu Thành) trước đây là một trong những điểm nóng, nổi lên nhiều vấn đề, như công tác tổ chức cán bộ, quản lý nhà nước, tài chính...

Nhờ việc tiếp xúc, tiếp nhận phản ánh của người dân, với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phan Văn Mãi, các cơ quan chức năng đã làm rõ những dấu hiệu vi phạm đối với tập thể Đảng ủy xã Tường Đa nhiệm kỳ 2015-2020 và 5 cá nhân. Kết quả, các cơ quan chức năng đã xử lý 3 cá nhân có vi phạm; chấn chỉnh kịp thời công tác quản lý, tạo niềm tin tưởng của nhân dân.

Cũng nhờ Quy định 11, người dân có thể thuận lợi tiếp cận người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để bày tỏ tâm tư, kiến nghị, phản ánh tình hình địa phương. Đồng chí Phạm Văn Huỳnh, Bí thư Đảng ủy xã Tiến Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hóa) tâm sự: “Tôi là người ở địa phương khác về đây công tác, cũng nhờ thực hiện Quy định 11 mà có được sự phản ánh nhiều chiều, nắm được tình hình thực tế tại xã để có những chỉ đạo kịp thời. Cấp xã là cấp gần dân nhất, nhiều sự việc tưởng gần nhưng nếu người dân không phản ánh thì chúng tôi cũng không nắm, xử lý kịp thời được”.

Phòng, chống “căn bệnh nguy hiểm”

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII chỉ ra thực trạng “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”.

Nghị quyết cũng chỉ ra một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Như vậy, quan liêu vẫn là một căn bệnh của không ít cán bộ lãnh đạo hiện nay mà Đảng ta đã chỉ ra. Quan liêu là không nắm được tình hình cơ sở, không nghe được tiếng nói thực lòng của người dân. Đồng chí Lê Doãn Hợp, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, chia sẻ: "Lãnh đạo mà quan cách thì mất nhiều nhất, ấy là mất thực tiễn, mất cơ hội cống hiến, làm mất uy tín của Đảng, tín nhiệm của dân, mất thông tin và lời khuyên, mất cả bạn bè".

Trong rất nhiều các đồng chí bí thư cấp ủy các cấp mà chúng tôi được tiếp xúc, hết thảy đều cho rằng nếu người đứng đầu cấp ủy lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân theo Quy định 11 thì tất sẽ mắc bệnh quan liêu. Nhìn nhận từ địa phương mình, đồng chí Tạ Huy Cần, Bí thư Huyện ủy Lạng Giang (Bắc Giang) khẳng định: “Quy định 11 rất quan trọng, cần thiết với huyện Lạng Giang trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay; nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công tác thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án, phát triển hệ thống giao thông, cụm công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị mới... phải sử dụng diện tích đất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân.

Do đó, người đứng đầu cấp ủy, nhất là ở cơ sở nếu không tập trung cao, lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của công dân sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ, mà quan trọng nhất là làm giảm niềm tin của người dân vào Đảng và chính quyền”.

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Ngô Chí Cường, Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh nhận định: “Người đứng đầu cấp ủy thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của nhân dân sẽ dẫn đến các cấp, các ngành không quan tâm giải quyết kịp thời quyền lợi chính đáng cho người dân; đồng thời người đứng đầu cấp ủy sẽ không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu bức xúc, chính đáng của người dân, sẽ không kịp thời chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc nóng mới phát sinh ngay từ ban đầu, ngay từ cơ sở. Việc này trở thành điểm nóng, khiếu kiện đông người, sẽ bị một số đối tượng xấu lợi dụng gây rối làm mất an ninh, trật tự ở địa phương”.

Hiện nay, trình độ dân trí khá cao, hầu hết các vụ việc mà người dân phải tìm đến gặp bí thư cấp ủy thì đã kéo dài. Vì vậy, nếu người đứng đầu cấp ủy không tiếp dân thì người dân chỉ còn cách duy nhất là khiếu nại, tố cáo vượt cấp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Mặt khác, người đứng đầu cấp ủy sẽ mất đi nguồn thông tin để nắm bắt cán bộ, đảng viên, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khi đó người dân sẽ giảm hoặc mất niềm tin vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng ở địa phương.

Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở đảng (nay là Vụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương), nếu người cán bộ lãnh đạo địa phương quan liêu, xa dân, sẽ không nắm được tình hình, dẫn đến không đề ra được giải pháp, chủ trương để giải quyết những vấn đề thực tiễn.

Ông cũng nhận định, người đứng đầu cấp ủy không có gì bằng nghe trực tiếp tiếng nói, những kiến nghị, đề xuất của nhân dân. Việc trực tiếp lắng nghe sẽ giúp người đứng đầu cấp ủy phân biệt ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai, cảm nhận thái độ người dân để “đo” lòng dân thế nào. Qua việc gần nhân dân để thấy chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi áp vào thực tiễn có vướng mắc gì, cái gì phù hợp, những gì chưa phù hợp để điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh.

Cũng qua nghe tiếng nói từ người dân để người lãnh đạo biết cấp ủy, chính quyền cấp dưới chỗ nào thực hiện tốt, chỗ nào không tốt. Như vậy, gần dân không những nắm được tâm tư, nguyện vọng của người dân mà còn biết đội ngũ cán bộ làm việc thế nào.

Điều 4, Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị về thời gian tiếp dân:

1. Người đứng đầu cấp ủy tiếp dân định kỳ như sau: a) Người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện tiếp dân ít nhất 1 ngày trong 1 tháng; b) Người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân ít nhất 2 ngày trong 1 tháng.

2. Người đứng đầu cấp ủy tiếp dân đột xuất trong các trường hợp sau: a) Vụ việc nổi cộm, phức tạp, kéo dài, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến các cơ quan, tổ chức đơn vị còn khác nhau; b) Vụ việc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Bài và ảnh: DƯƠNG HÒA - HOÀNG VIỆT

Không được ngây thơ...

Hằng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7), ông Thái là thương binh hạng 1/4 lại vào Quảng Trị để thắp hương cho đồng đội.

Năm nay, khi về, ông mời một số anh em sang uống trà và thưởng thức đặc sản miền Trung. Đang lúc vui chuyện, ông Hưng hàng xóm buột miệng:

- Ngày xưa, anh em mình dại. Cứ xung phong ra tuyến đầu, thành thử dính đạn rồi thành liệt sĩ, bị thương, đâm ra vất vả cho cả gia đình.

Nghe ông Hưng nói vậy, chất lính trong người ông Thái sôi lên:

- Ông mà cũng nghĩ vậy à? Nếu không xông pha ra trận thì sao đánh đuổi được quân xâm lược? Ông nói thế là xúc phạm đến các đồng đội của chúng ta đã anh dũng hy sinh vì độc lập của dân tộc.

Ảnh minh họa / qdnd.vn 

Ông Hưng cố cãi:

- Bác không biết đấy thôi, trên mạng người ta còn bảo, đáng nhẽ, chúng ta không cần chiến tranh, hy sinh xương máu mà chỉ cần kiên trì thương lượng, đàm phán trong hòa bình thì đỡ mất mát, đau thương mà vẫn đuổi được quân xâm lược. Tôi nghĩ, họ nói thế cũng có lý đấy!

Nghe ông Hưng nói vậy, ông Thạch, Chi hội trưởng Chi hội Cựu chiến binh thôn phản ứng quyết liệt:

- Tôi không ngờ đến tuổi này rồi, cũng từng cầm súng trên chiến trường mà ông Hưng lại tin vào những luận điệu như vậy! Tôi hỏi ông, cuộc chiến tranh phi nghĩa do quân xâm lược gây nên trên đất nước ta, dày xéo mồ mả tổ tiên, ông cha ta; cướp bóc của cải, giết hại nhân dân, khiến xóm làng chìm trong bom đạn, già trẻ, gái trai không được sống trong hòa bình, con cháu không được đến lớp... Nếu chúng ta không cầm súng đánh đuổi quân xâm lược thì thương lượng, đàm phán có ích gì? Hay chúng ta chỉ cúi đầu xin kẻ thù thương thì chúng sẽ tự rút về nước?

Ông Hưng đuối lý:

- Thì em đọc thông tin trên mạng họ nói thế nên giãi bày ra thôi, chứ em cũng đã tham gia kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm mà không tiếc máu xương gì.

Thấy ông Hưng đã thông tư tưởng, ông Thái bảo:

- Thực tế đã chứng minh, địch chỉ ngồi vào bàn đàm phán khi chúng thất thế trên chiến trường, thậm chí trước mỗi cuộc đàm phán chúng còn cố gắng dồn lực đánh ta hòng giành lợi thế. Có qua thực tế kháng chiến mới biết rõ không thể có chuyện địch tự trả độc lập, tự do cho nhân dân, đất nước ta. Thế mà hiện nay, một số người lại tin vào luận điệu của bọn phản động, cho rằng ta không cần đánh thì rồi địch cũng tự rút. Âm mưu của những kẻ tung luận điệu phản động này là nhằm phủ nhận đường lối, công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, làm cho nhân dân ta nghi hoặc, dẫn đến mất niềm tin, mất đoàn kết. Vì thế, chúng ta phải hết sức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch.

TRẦN DUY

Làm gì để tránh bẫy tín dụng đen núp bóng vay trực tuyến?

Thực trạng bẫy tín dụng đen thông qua hình thức vay tiền qua app (ứng dụng) đang tác động không nhỏ đến cuộc sống của người dân, nhất là những hộ gia đình đang thực sự có nhu cầu vay tiền. Để không bị đối tượng cho vay nặng lãi lừa đảo, người dân cần đến các ngân hàng, công ty tài chính uy tín để được hỗ trợ hoặc vay qua các app chính thống được kiểm chứng trên thực tế.

Theo các chuyên gia kinh tế, hiện nay, tình trạng tín dụng đen không chỉ dừng lại ở việc “chào hàng” qua điện thoại, tờ rơi… mà càng tinh vi hơn khi núp bóng dưới hình thức cho vay trực tuyến (online) qua app trên thiết bị điện tử thông minh. Nguy hiểm hơn, hình thức tín dụng đen này đang len lỏi vào đời sống của người lao động tại các khu công nghiệp, khu lưu trú đông công nhân. Khá nhiều app cho vay không cần thẩm định khách hàng mà bắt buộc khách hàng tải app, cho phép truy cập thông tin cá nhân, danh bạ điện thoại... Mới đây, cơ quan chức năng vừa triệt phá đừng dây cho vay nặng lãi qua app với lãi suất rất cao là cảnh báo lớn đến người dân. Các đối tượng này thành lập 3 app cho vay gồm: “cashvn”, “vaynhanhpro” và “ovay” đã tiếp cận gần 1 triệu người vay.

Nguyên nhân khiến cho tín dụng đen núp bóng cho vay online phát triển được trong xã hội là các đối tượng khai thác, lợi dụng tâm lý của người dân có nhu cầu vay tiền muốn được thủ tục nhanh, đơn giản, tiện lợi mọi lúc mọi nơi… Ngoài ra, có một số người dân do không tìm hiểu kỹ, không phân biệt được app vay tiền của các đơn vị chính thống được cấp phép và của các đối tượng cho vay nặng lãi.

Các chuyên gia kinh tế, tài chính khuyến cáo rằng, người vay cần tỉnh táo phân biệt rõ giữa app cho vay chính thống và app cho vay núp bóng tín dụng đen. Khuyến cáo của Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia chỉ rõ, khi sử dụng mạng xã hội hoặc nhận được các tin nhắn kèm đường link cài đặt ứng dụng có nội dung như: “Không cần thế chấp, lãi suất không đồng”, “Vay siêu tốc, nhận tiền sau 30 phút, lãi suất thấp, nhận tiền ngay”… thì người dân phải rất cảnh giác. Nhiều chuyên gia cũng mong muốn các ngân hàng, công ty tài chính có thể đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, hướng đến các gói vay nhỏ, phục vụ nhu cầu cấp bách trước mắt của người dân. Các tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân với các cơ chế thông thoáng, áp dụng các công nghệ để người dân tiếp cận các gói vay ưu đãi được dễ dàng hơn.

Chỉ cần thao tác đơn giản trên internet, người dân sẽ thấy nhiều app cho vay tiền nhưng việc nhận biết app nào chính thống là thách thức lớn. 

Theo ông Kalidas Ghose, CEO Công ty Tài chính VPBank SMBC (FE CREDIT), để giảm rủi ro cho người dân khi vay tín dụng online, các tổ chức tín dụng phải liên tục nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng an toàn cho người dân thông qua công nghệ, hỗ trợ người đi vay làm quen với quy trình và thủ tục vay tại các kênh tín dụng chính thống. Đồng thời, các công ty tài chính, tổ chức ngân hàng phải đồng hành với người vay để bảo đảm người vay có tài chính cho các khoản trả hàng tháng. Từ đó, tạo động lực cho người dân tham gia vay tiêu dùng một cách lành mạnh.

Ở góc độ pháp luật, các chuyên gia mong muốn cơ quan chức năng liên quan cần chung tay đẩy mạnh các giải pháp hạn chế sự xuất hiện của các app cho vay tiền nặng lãi, tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm vi liên quan đến hoạt động tín dụng đen, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của người dân.

Tại địa bàn TP Hồ Chí Minh, theo Công an Thành phố, tính từ ngày 25-5-2021 đến ngày 24-5-2022 đã xảy ra 364 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản với số tiền lên đến hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các quận, huyện và TP Thủ Đức đã tiếp nhận và xử lý hơn 1.200 tin báo liên quan đến hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong các phương thức thủ đoạn của đối tượng sử dụng, có dùng mạng xã hội, ứng dụng trên thiết bị điện tử thông minh…

Thượng tá Lê Mạnh Hà, Phó trưởng Phòng Tham mưu, Công an TP Hồ Chí Minh cho biết: Để ngăn chặn tình trạng tín dụng đen, lực lượng công an sẽ tiếp tục tham mưu chính quyền địa phương có kế hoạch khảo sát những hộ nghèo có nhu cầu vay vốn, đơn giản hóa thủ tục cho vay để người dân có thể tiếp cận các nguồn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc thành lập các quỹ cho vay hỗ trợ người nghèo của từng xã, phường, thị trấn gắn với chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Đồng thời, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố liên quan hoạt động tín dụng đen.

KHÁNH GIANG

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...