Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai các biện pháp đồng bộ, ưu tiên dành nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Các thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và việc tăng cường hội nhập quốc tế đã tạo ra các điều kiện vật chất và nguồn lực để Việt Nam bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.
Nghiêm túc với các cam kết quốc tế
Cho đến nay, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc tế,
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực,
đa phương và song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người. Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục
tiêu Phát triển Bền vững (SDG).
Con người luôn là trung tâm trong tiến trình phát triển của Việt Nam. |
Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng
nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó, kiểm
soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ sức khỏe, bảo đảm quyền tối thượng
là quyền được sống của người dân; đồng thời thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải
pháp giảm thiểu tác động của dịch đối với nền kinh tế, duy trì và phục hồi sản
xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất
là những người dễ bị tổn thương.
Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã thông qua 36 luật, trong đó có nhiều
văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, góp phần
cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các Công ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên như Bộ luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật Cư trú,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Xuất
cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật
Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Thư viện... Các luật
này đã góp phần kiến tạo thể chế, khung pháp lý điều chỉnh trên lĩnh vực kinh tế-xã
hội có liên quan trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của người dân.
Thực hiện một số khuyến nghị theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR)
chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi, bổ sung
một số Luật phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc sửa đổi Luật
Trẻ em, cụ thể là định nghĩa trẻ em là người dưới 18 tuổi, nghiên cứu xây dựng
dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, quy định cụ thể định nghĩa quấy rối tình dục
trong Bộ luật Lao động 2019...
Nhiều Chương trình hành động cấp quốc gia được ban hành như Chương
trình hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2021-2030, Chương trình bảo vệ trẻ em trên không gian mạng
và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình
phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030,
Chương trình phát triển xã hội giai đoạn 2021-2030…, góp phần bảo đảm tốt hơn
quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam đang tiếp tục triển khai Luật
Bình đẳng giới, Luật Người khuyết tật và tích cực nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện
hệ thống pháp luật về các vấn đề này.
Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với
các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên của
7/9 Công ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên
của 25 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế, trong đó có 7/8 Công ước cơ bản;
đang nghiên cứu phê chuẩn Công ước cơ bản còn lại là Công ước 87 về Quyền tự do
hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức. Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc các cam kết nghĩa vụ theo các công ước này, trong đó có nghĩa vụ báo
cáo tình hình thực thi các Công ước tại Việt Nam.
Những thành tựu nổi bật
Nỗ lực trong phát triển kinh tế và bảo đảm sinh kế, tạo nền tảng cho việc
thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho người dân, Việt Nam đã tiếp
tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái
nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối
thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn
2016-2020 đã có những kết quả tích cực như tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng
2,75%, bình quân trong 5 năm giai đoạn giảm khoảng 1,43%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại
các huyện nghèo còn khoảng 24%, bình quân trong 5 năm giảm 5,65%. Trong thời kỳ
đại dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người
lao động và người sử dụng lao động; chủ trương bảo đảm tiêm vaccine phòng
COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên mà WHO khuyến nghị.
Về giáo dục, tại Việt Nam, người dân được tạo điều kiện để học liên tục
mọi nơi, học suốt đời theo nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, trong giai đoạn
2012-2020 đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết
chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-35 là 99,3%. Việt
Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, việc tiếp cận
thông tin của người dân ngày càng được phát triển, rộng mở, đặc biệt là người
dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.
Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn
thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Mạng
lưới viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa và phát triển rộng khắp với mức phủ
sóng đạt 99,7% dân số, trong đó mạng 3G và 4G phục vụ 98% dân số. Theo báo cáo
xếp hạng An toàn an ninh mạng toàn cầu (GCI) năm 2020 do ITU công bố mới đây,
Việt Nam đã tăng 25 bậc trong 2 năm, vươn lên vị trí thứ 25 trong tổng số 194
quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
thứ 4 trong khu vực ASEAN.
Trong lĩnh vực tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc
16 tôn giáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và có hàng ngàn
nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung độc lập được đăng ký sinh hoạt tôn giáo
(trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú
hợp pháp tại Việt Nam).
Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước hiện có 50.703 cơ sở tín ngưỡng; có
29.801 cơ sở tôn giáo, 53.390 chức sắc, 95.360 chức việc; 40.075 người vừa là
chức sắc, vừa là chức việc tại 62/63 tỉnh, thành phố và 26.548.509 tín đồ. Việt
Nam hiện có 63 cơ sở giáo dục, đào tạo tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin
lành, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo với hơn 18.000 học viên đăng ký theo học các
khóa đào tạo tôn giáo mỗi năm. Năm 2020 có khoảng 230 cơ sở thờ tự được xây mới,
308 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa...
Những chính sách thiết thực, hiệu quả nêu trên đã khẳng định quyền con
người ở Việt Nam hiện được bảo đảm và không ngừng nâng cao.
Huyền Chi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét