Cách đây 75 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 - 19-12-2021) để kêu gọi các lực lượng đứng lên chống thực dân Pháp. Những đối sách linh hoạt, những chủ trương, biện pháp sáng tạo của Đảng mà đứng đầu là Bác Hồ cách đây 75 năm mãi là những bài học vô giá với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Phát lệnh toàn quốc kháng chiến tại các cửa ngõ Thủ đô (Ảnh: Tư liệu). |
Nỗ lực vãn hồi hòa bình không thành
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời. Đó là thành quả lớn nhất mà dân tộc ta đã giành được sau gần một thế kỷ
kiên trì đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Thế nhưng trong
lúc chúng ta đang rất cần một môi trường hòa bình để xây dựng đất nước thì Pháp
lại rắp tâm quay trở lại nước ta một lần nữa.
Trước tình thế Tổ quốc lâm nguy, nền hòa bình mong manh của đất nước có
nguy cơ bị phá vỡ, nhân dân ta có nguy cơ quay trở lại kiếp sống nô lệ, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động chọn giải pháp đấu tranh ngoại
giao, đàm phán với Pháp để ngăn chặn cuộc chiến tranh vô nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn gửi thư tới các nguyên thủ quốc gia Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên
khác của Liên hiệp quốc nêu rõ thiện chí hòa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc chấp
nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình, tránh một cuộc
chiến tranh đổ máu. Tuy nhiên, mọi nỗ lực ngoại giao của ta đều không được phía
Pháp đáp lại, ngày càng có nhiều hành động khiêu khích tạo cớ gây xung đột vũ trang
với ta. “Tối hậu thư” của tướng Mô-li-e ngày 18-12-1946 là giọt nước làm tràn
li và mọi sự nhân nhượng của chúng ta đã đến giới hạn cuối cùng.
Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến để cả dân tộc bước vào cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, gian khổ tới
30 năm, qua 2 cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp rồi đến quốc Mỹ
xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Sự kiện này được Đại tướng -
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đánh giá là cuộc tổng giao chiến đầu tiên có ý
nghĩa lịch sử trọng đại mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm, kết
thúc bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao quan điểm hòa bình, hữu nghị, hợp tác,
nỗ lực tìm mọi giải pháp để ngăn chặn chiến tranh. Với những ứng xử ngoại giao
khôn khéo, linh hoạt trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, chúng ta đã tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và những hoạt động ngoại giao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã làm cho các nhân vật trong Chính phủ Pháp, nhân dân Pháp và
dư luận quốc tế chú ý và hiểu rõ về đất nước, con người Việt Nam về khát vọng độc
lập, hòa bình của nhân dân Việt Nam, về thiện chí của nước Việt Nam đã tạo tiền
đề cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của
nhân dân ta.
Tuy nhiên, mọi nỗ lực vãn hồi hòa bình của chúng ta vẫn không vượt qua
được dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Giới thực dân hiếu chiến quyết đặt lại
ách thống trị trên toàn cõi Đông Dương. Trước tình hình đó, chúng ta chỉ có một
con đường là cầm súng đứng lên đánh Pháp để bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả
của Cách mạng Tháng Tám:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
Bài học quý cho công tác đối ngoại hiện nay
Khoảng thời gian đấu tranh ngoại giao đó không dài nhưng có ý nghĩa hết
sức quan trọng và cần thiết với một dân tộc vừa giành được chính quyền lại phải
đối phó với “thù trong giặc ngoài”. Bài học lịch sử được rút ra từ giai đoạn đó
là sự kết hợp giữa công tác đối nội và đối ngoại, giữa lập trường kiên định với
biện pháp mềm dẻo, giữa nhân nhượng sách lược với quyết tâm chiến lược, giữa
tranh thủ khả năng hòa bình với chuẩn bị tiến hành chiến tranh. Nhờ đó, toàn thể
dân tộc Việt Nam đã chủ động và vững bước tiến vào cuộc kháng chiến gìn giữ nền
độc lập, bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau 75 năm ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ (1946-2021) và 35 năm đất
nước đổi mới (1986-2021), công tác đối ngoại của Việt Nam đã giành được nhiều
thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực: đối ngoại chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh. Xét về mặt ngoại giao nhà nước, tính đến tháng 12-2021, Việt
Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành
viên của Liên hiệp quốc, trong đó Việt Nam có quan hệ “Đối tác chiến lược” và
“Đối tác toàn diện” với 30 nước, bao gồm 5 nước thành viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên hiệp quốc, toàn bộ thành viên của tổ chức G7 và tất cả thành
viên của ASEAN.
Kế thừa những thành tựu đối ngoại và những bài học kinh nghiệm quý báu
của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Nhà nước
ta luôn quán triệt tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Ý chí tự lực, tự cường
và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài và xác định sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn
lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng.
Nguyên tắc đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp
quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Ngày nay, trong bối
cảnh quốc tế với nhiều biến đổi phức tạp, thời cơ và thách thức đan xen lẫn
nhau. Vấn đề đoàn kết, hòa bình, hợp tác của các nước có những thuận lợi và khó
khăn mới. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
những vẫn luôn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường.
Quay trở lại lịch sử 75 năm trước gắn liền với sự ra đời của Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng
thấu hiểu việc bỏ qua cơ hội lịch sử thiết lập những quan hệ hợp tác bình đẳng
giữa Pháp và Việt Nam lúc đó, Chính phủ Pháp đã làm tan vỡ hy vọng cuối cùng về
một nền hòa bình ở Đông Dương, đẩy những người lính Pháp vào một cuộc chiến vô
nghĩa. Cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ ở những năm tháng đó có giá trị thức tỉnh và
soi rọi không chỉ những ngày đã qua mà còn rất có ích cho hiện tại, cho những
thách thức và cơ hội, những khả năng hợp tác, đấu tranh luôn thường trực và đan
xen nhau.
Năm 1966, đúng 20 năm sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, trong thư
gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng thống Pháp là Sác-lơ đờ Gôn đã viết: “Giá như có
một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp sau Đại chiến
thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giằng xé đất nước
Ngài hôm nay”.
75 năm trước, ngoại giao tuy là một mặt trận “đơn độc” nhưng rất hiệu
quả. Ngày nay, mặt trận ngoại giao Việt Nam đang được hưởng các điều kiện bên
trong và bên ngoài rất thuận lợi. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin rằng, ngoại
giao Việt Nam hiện nay trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đã và đang tiếp
tục phát huy vai trò và sứ mệnh là một trong những mặt trận hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta theo cách ứng xử ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến”.
Những đối sách linh hoạt, những chủ trương, biện pháp sáng tạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 75 năm mãi là những bài học vô giá với công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhắc nhở lịch sử một thời chiến tranh để
chúng ta phải càng thêm trân quý nền hòa bình và gắng làm tất cả vì nền hòa
bình để phát triển.
ThS. Trần Trung Hiếu
Giáo viên Lịch sử, Trường THPT chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét