PGS, TS. NGUYỄN DANH TIÊN - PGS, TS. TRỊNH
THỊ HỒNG HẠNH
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Viện Lịch sử
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TCCS - Cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai có phải là cuộc “nội chiến” giữa hai
miền Nam - Bắc do xung đột về ý thức hệ như những luận điệu xuyên tạc lịch sử của
các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị? Thực tiễn lịch sử khẳng định,
đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược
và tay sai nhằm giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước. Không ai
có thể bác bỏ được!
Một góc Thành phố Hồ Chí Minh sau 47 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước _Ảnh: Đỗ Trọng Danh |
Một số quan điểm sai trái, thù địch
về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Có thể điểm lại một số luận điệu
xuyên tạc chủ yếu sau của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị:
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiếu
chiến, muốn gây chiến tranh thôn tính miền Nam, từ đó, đổ lỗi 21 năm chiến
tranh với hàng triệu người của hai miền thiệt mạng là lỗi của bên Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
“tay sai” của Liên Xô, Trung Quốc. Kháng chiến chống Mỹ là thực hiện mưu đồ của
Liên Xô, Trung Quốc “muốn đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ
là một “con bài” trong cuộc “mặc cả” giữa các nước lớn là Liên Xô, Trung Quốc
và Mỹ.
- Việt Nam chỉ là chiến trường thử
nghiệm vũ khí của Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc.
- Nếu Việt Nam Cộng hòa được xem
là con rối, là bù nhìn, là ngụy, do Hoa Kỳ giật dây thì Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cũng chỉ là “con rối” trong tay Liên Xô, Trung Quốc...
- Chiến tranh Việt Nam là cuộc nội
chiến tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản và
không cộng sản; trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, người Mỹ không hề muốn cai
trị người Việt Nam, người Mỹ can thiệp vào Việt Nam là vì “thế giới tự do”.
Với sự phát triển của công nghệ
thông tin, những luận điệu trên đang tràn lan trên internet, được các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị rêu rao lặp đi lặp lại, âm mưu lừa bịp,
xuyên tạc để phục vụ mưu đồ đen tối của chúng.
Thực tế lịch sử khẳng định, cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975
không phải là “nội chiến”, mà là cuộc chiến tranh yêu nước, nhằm giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và hành động
xâm lược Việt Nam của chính giới Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn nội
bộ dân tộc Việt Nam.
Chiến tranh xâm lược Việt Nam
1954 - 1975 trước hết và căn bản khởi phát từ lợi ích bên trong của đế quốc Mỹ,
từ chiến lược toàn cầu của Mỹ mà căn nguyên sâu xa là xuất phát từ bản chất chế
độ chính trị cường quyền
Với mưu đồ xâm lược, khi Hiệp định
Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết
(tháng 7-1954), đế quốc Mỹ đã thực hiện phá hoại công cuộc hòa bình, thống nhất
nước Việt Nam. R.S. Mắc Na-ma-ra, cựu Bộ trưởng Quốc phòng, một trong những kiến
trúc sư hàng đầu của Mỹ về chiến tranh Việt Nam, đã nhắc đến quan điểm của
Ai-xen-hao được thể hiện qua diễn văn của J.F. Ken-nơ-đi (công bố năm 1956), rằng
“Việt Nam là hòn đá tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của
chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của
nó”(1). Trong bối cảnh lịch sử mới, Việt Nam có vị trí quan trọng đối với Mỹ:
Nơi thử thách vai trò, sức mạnh to lớn của một đế quốc hàng đầu từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, là sự tiếp tục và cao nhất chính sách thực dân mới của
Mỹ, thực hiện “Học thuyết Truman” (năm 1947) nhằm bảo đảm “an ninh quốc gia” và
“bao vây chủ nghĩa cộng sản”. Một nhà nghiên cứu trong bài viết “Chiến tranh Việt
Nam là gì?”, đăng trên báo The New York Times, ngày 26-3-2018, đưa ra nhận xét:
“Cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam không phải là một cuộc xung đột cục bộ, cô lập,
không liên quan đến an ninh quốc gia của Mỹ, mà là một cuộc chiến không thể
tách rời với ưu tiên cao nhất của quốc gia - cuộc chiến chống Cộng sản trên toàn
cầu trong chiến tranh lạnh”(2); “các nhà hoạch định chính sách cảnh báo rằng nếu
miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng sản, các nước láng giềng chắc chắn
sẽ lần lượt gục ngã, lần lượt như một hàng quân cờ domino”(3).
Từ năm 1950, Mỹ chính thức can
thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Đông
Dương (MAAG) của Mỹ bắt đầu viện trợ quân sự cho Pháp, từ 52 tỷ phrăng lên tới
751 tỷ phrăng năm 1954, chiếm 73,9% chi phí chiến tranh(4). Tiếp đó, Mỹ nhanh
chóng gạt Pháp, trực tiếp tiến hành tổ chức quân đội, chính quyền mới, tiến
hành bầu cử riêng rẽ ở miền Nam Việt Nam (đầu năm 1955), lập ra cái gọi là
chính thể “Việt Nam Cộng hòa”, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền
Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ.
Chính giới Mỹ đã đặt “vấn đề Việt
Nam” vào trong luận thuyết của “chiến tranh lạnh”. Dùng biện pháp chiến tranh để
thôn tính miền Nam Việt Nam, Mỹ không chỉ nhằm áp đặt ách thống trị chủ nghĩa
thực dân mới, mà còn nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng
sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra, Mỹ còn tính toán tới lợi
ích kinh tế mà các tập đoàn tư bản công nghiệp, tài chính hùng mạnh của Mỹ thu
được qua cuộc chiến này; đồng thời, tính toán tới sự răn đe đối với Liên Xô,
Trung Quốc và phong trào giải phóng dân tộc. Mục tiêu chiến lược toàn cầu và lợi
ích của giới tư bản Mỹ, vì vậy, là các nhân tố quyết định hành động chiến tranh
và thúc đẩy chiều hướng leo thang chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Đế quốc Mỹ (và cả thực dân Pháp
trước đó) tìm cách lôi kéo đồng minh, đẩy mạnh xây dựng quân đội và chính quyền
tay sai, vừa mua chuộc, lôi kéo (rêu rao Mỹ chỉ là đồng minh), vừa uy hiếp và
khi cần thì cũng không ngần ngại tổ chức đảo chính, thủ tiêu những chính trị
gia không vâng lời, nhằm giữ quyền lãnh đạo của mình... Mặt khác, Mỹ coi trọng
việc xây dựng cơ sở xã hội, dựa vào các thế lực thù địch, những phần tử phản động
đội lốt tôn giáo, vừa tạo chỗ đứng, tạo thế hợp pháp ở bên trong để che giấu bộ
mặt thực dân, vừa tích cực tổ chức huấn luyện đội quân viễn chinh, lập các căn
cứ, khối liên minh quân sự ở bên ngoài... Khi tất cả các thủ đoạn không đạt được
mục tiêu đề ra, hoặc kém hiệu quả, Mỹ đẩy tới hành động quân sự, dùng biện pháp
chiến tranh là chủ yếu. Tháng 2-1962, Mỹ thành lập Bộ tư lệnh viện trợ Hoa Kỳ ở
Việt Nam, đến tháng 7-1965, đổi thành Bộ tư lệnh lục quân Hoa Kỳ tại Việt Nam,
trực tiếp chỉ huy đội quân viễn chinh Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đồng
minh trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã tiêu tốn vào cuộc chiến
676 tỷ USD(5); cử 6,6 triệu lượt quân tham chiến; huy động 70% lục quân, 60%
lính thủy đánh bộ, 40% hải quân, 60% không quân(6); trên 72 nghìn quân(7) các
nước đồng minh Mỹ tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam(8). Với những vũ
khí mới nhất, với khối lượng lớn bom đạn, chất độc hóa học, chất độc da cam,
quân đội Mỹ đã tiến hành càn quét, đốt phá, và giết hại nhiều dân thường. Từ
năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng
80 triệu lít chất độc hóa học(9). Cùng với việc đưa quân vào miền Nam, Mỹ tiến
hành chiến tranh phá hoại vô cùng khốc liệt đối với miền Bắc Việt Nam.
Đế quốc Mỹ áp đặt phương thức thống
trị thực dân kiểu mới, giấu mặt, cai trị trá hình, nuôi dưỡng và dựng lên chính
quyền bù nhìn từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Từ năm 1955 đến năm 1961,
đế quốc Mỹ đã viện trợ cho chính quyền miền Nam Việt Nam 7 tỷ USD(10). Những
năm 1955 - 1956, Mỹ chi 414 triệu USD xây dựng các lực lượng thường trực quân đội
Việt Nam Cộng hòa gồm 170.000 người và lực lượng cảnh sát với 75.000 người. 80%
ngân sách quân sự của chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ viện trợ(11). Trong giai
đoạn 1962 - 1974, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 21.336 triệu USD (bao gồm
cả viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự)(12).
Một thực tế rõ ràng là, tuy Mỹ
coi lực lượng tay sai ở miền Nam Việt Nam là những người “quốc gia chủ nghĩa”,
nhưng chưa bao giờ thực sự coi trọng những lực lượng này. Mỹ chỉ xem họ như những
quân cờ trên bàn cờ chiến lược của mình. Một khi quân cờ nào không còn hữu dụng
nữa thì Mỹ sẵn sàng thay thế, vứt bỏ họ. Một học giả Mỹ đánh giá: “Quan hệ đồng
minh Mỹ - Diệm là một sản phẩm của tính toán địa chính trị của Mỹ thời chiến
tranh lạnh”, và “việc Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại
về sự bành trướng Xô-viết”(13). Ngay những quan chức cấp cao của chính quyền
Sài Gòn cũng nhận thức được thân phận làm tay sai cho Mỹ của mình, và nhận ra
cuộc chiến này là cuộc chiến của người Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam: “Ông Mỹ
luôn luôn đứng ra làm sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất
đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”(14).
Giới chóp bu của chế độ Sài Gòn chỉ được tự do trong giới hạn mà Mỹ cho phép.
Cái gọi là chính thể “Việt Nam Cộng hòa” là chính quyền do người Mỹ dựng lên,
nuôi dưỡng và điều khiển để phục vụ cho chiến tranh xâm lược. Ngay cả sau năm
1973, khi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, thì mục
tiêu phục vụ cho quyền lợi của người Mỹ của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở
miền Nam vẫn không hề thay đổi. Tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu - lực lượng tưởng chừng
được Mỹ ủng hộ nhất quán nhất, cuối cùng cũng cay đắng thừa nhận trong phát biểu
từ chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 21-4-1975, rằng: Mỹ là một đồng minh
“thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng
minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc”(15). Một
nghiên cứu nước ngoài chỉ rõ: “Nếu không có sự can thiệp của Mỹ, thật khó có thể
tưởng tượng rằng miền Nam Việt Nam đã ra đời hoặc nếu có thì sẽ tồn tại được
bao lâu”(16).
Từ tất cả những điều đã trình bày
trên đây, có thể thấy rõ rằng, đế quốc Mỹ đã chống lại sự nghiệp thống nhất đất
nước của dân tộc Việt Nam, chống lại tất cả những ai ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí
Minh và mong muốn độc lập, hòa bình, thống nhất của Việt Nam. Rõ ràng, đế quốc
Mỹ đã chà đạp luật pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, và vì
thế, trở thành đối tượng đấu tranh trước hết trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào giải phóng Thành phố, ngày 30-4-1975 _Ảnh: TTXVN |
Tính chất chính nghĩa của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam
Cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất
nước của dân tộc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 là cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, đồng thời đấu tranh nhằm loại bỏ những thế lực đi ngược lại lợi ích
quốc gia - dân tộc và nguyện vọng nhân dân. Trên bình diện quốc tế, đó là một bộ
phận của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, nhằm khẳng định và bảo vệ
quyền tự quyết của dân tộc mình. Trong bối cảnh của cuộc “chiến tranh lạnh”, cuộc
đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là một bộ phận của cuộc đối
đầu quyết liệt giữa phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa.
Nhằm đạt mục tiêu hòa bình, thống
nhất đất nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhân dân Việt Nam đã
nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Tháng 6-1955, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với chính quyền Sài Gòn, nhưng
không được đáp ứng. Tháng 7-1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền
Ngô Đình Diệm trả lời, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu các đồng chủ tịch
Hội nghị Giơ-ne-vơ tổ chức một cuộc hội nghị mới. Các yêu cầu đàm phán với
chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì
nêu lên(17), nhưng đều bị từ chối.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp
dã man các phong trào hòa bình, bắt bớ, truy bức, giết hại những người yêu nước
ở khắp miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1959, 466.000 người cộng sản và người yêu
nước bị bắt, 400.000 người bị tù đày và có 68.000 người bị giết hại(18). Một
báo cáo của Việt Nam Cộng hòa năm 1960 đưa ra con số những người cộng sản bị bắt
giữ từ năm 1954 là 48.200 người; một công bố năm 1961 ghi nhận tổng số người bị
bắt giữ và thiệt mạng dưới bàn tay lực lượng an ninh chính quyền Sài Gòn lên tới
trên 60.000 người(19).
Đối diện với tình hình trong nước,
quốc tế vô cùng khó khăn, phức tạp, những năm 1954 - 1959, Đảng Lao động Việt
Nam vẫn kiên trì đấu tranh bằng phương pháp hòa bình để thống nhất đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định hòa bình, thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha
thiết, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất một cách hòa bình. Đấu tranh vũ
trang chỉ buộc phải thực hiện khi không còn con đường nào khác. Quyết tâm thực
hiện thống nhất đất nước được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng (tháng 9-1960): “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân
ta nhất định sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được “thống nhất đất
nước, Nam, Bắc một nhà””(20).
Trong bối cảnh phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có những bất đồng, xuất hiện chủ nghĩa xét lại, tâm lý sợ
Mỹ, ngại đối đầu với Mỹ, biểu hiện ở xu hướng hòa hoãn, chung sống hòa bình, thủ
tiêu đấu tranh vũ trang..., Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra đường lối kháng chiến
độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân
trên cả hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự nghiệp chính
nghĩa bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là động lực cơ
bản có sức cuốn hút mạnh mẽ và tập hợp lực lượng rộng lớn - toàn thể cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tạo thành khối đoàn kết thống nhất trong cuộc đấu tranh
chung.
Ở miền Nam, năm 1960, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Tháng 6-1969, tại Đại hội
đại biểu quốc dân miền Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam được thành lập(21). Đây là cơ quan quyền lực tập trung cao nhất đại diện
cho cách mạng miền Nam, là thể hiện ý chí của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng thống nhất của toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Chính phủ có nhiệm vụ đoàn kết
nhân dân miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, lật đổ chính quyền tay sai, đưa miền
Nam Việt Nam phát triển theo con đường độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập,
phồn vinh, tiến tới thống nhất đất nước. Chính phủ cách mạng lâm thời là một đối
trọng với chính quyền Sài Gòn tại Hội nghị Pa-ri, làm thất bại âm mưu xưng danh
“đại diện hợp pháp duy nhất” cho miền Nam của Mỹ và chính quyền tay sai. Dưới
ngọn cờ chính nghĩa của Chính phủ cách mạng lâm thời, các phong trào vận động
nhân dân, trí thức đã kết thành một sức mạnh rộng lớn, tập hợp đông đảo các tầng
lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, vì một mục tiêu giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Đến cuối năm 1972, Chính phủ cách mạng lâm thời
được 30 nước trên thế giới chính thức công nhận(22), với tư cách là đại diện
chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam.
Dù phải chịu tác động bởi mâu thuẫn,
bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi đó, nhưng Việt Nam
vẫn giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên
hết; xử lý các mối quan hệ một cách đúng đắn, mềm dẻo; coi trọng, kiên trì vấn
đề đoàn kết quốc tế. Quan điểm nhất quán của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ cao nhất của các
nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng không lôi kéo
các nước xã hội chủ nghĩa vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Từ khoảng giữa
năm 1972, viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam đều bị cắt giảm mạnh.
Việt Nam nhận thức được sự chuyển dịch trong quan hệ tam giác giữa ba cường quốc
là Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc. Trong khi khai thác mặt tích cực của các nước ủng
hộ công cuộc kháng chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đề cao cảnh giác, hạn
chế tối đa mặt tiêu cực trong mối quan hệ đó. Vì thế, khi hai nước lớn giảm dần
sự viện trợ, Việt Nam vẫn kiên quyết giữ vững mục tiêu của mình.
Đảng Lao động Việt Nam và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn sự nghiệp
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù được
che giấu dưới mọi hình thức, để thức tỉnh lương tri nhân loại tiến bộ. Phong
trào nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược, hình thành từ
cuối năm 1964, đã nhanh chóng mở rộng, phát triển mạnh mẽ từ khi đế quốc Mỹ đưa
quân vào miền Nam và tiến hành dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc.
Đó là lực lượng chính trị hùng hậu, đã tác động sâu sắc đến chính sách và thái
độ hiếu chiến của nhiều chính phủ trên thế giới đối với vấn đề chiến tranh Việt
Nam. Chưa bao giờ trên thế giới xuất hiện một phong trào ủng hộ sự nghiệp chính
nghĩa của một dân tộc lại có quy mô rộng lớn như phong trào quốc tế ủng hộ nhân
dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.
Việc Mỹ áp đặt chế độ thống trị
thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, gây chiến tranh tàn phá đất nước Việt
Nam, là cuộc chiến tranh xâm lược đối với một quốc gia độc lập có chủ quyền.
Nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và trực tiếp là từ hành động xâm lược
Việt Nam của chính giới Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn trong nội bộ
dân tộc Việt Nam.
Bắc - Nam sum họp (Ảnh chụp năm 1975 tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu, các bà mẹ miền Bắc và miền Nam gặp nhau nhân dịp thống nhất đất nước)_Ảnh: TTXVN |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến
hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhận được sự ủng hộ, giúp sức của Liên
Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân
chủ, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, nhưng đó thực sự là
cuộc chiến đấu của chính bản thân nhân dân Việt Nam, không có sự tham gia trực
tiếp của nước ngoài. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước
là thắng lợi của tư duy chiến lược độc lập, tự chủ, sáng tạo, của sách lược ứng
xử khôn khéo, kiên quyết và hiệu quả của Đảng Lao động Việt Nam và Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lịch sử cuộc chiến tranh đã lùi
xa, việc nhận thức đúng bản chất của nó cho phép mỗi người dân Việt Nam, dù trước
đây đứng ở phía bên nào của cuộc chiến, cũng có quyền tự hào về truyền thống chống
giặc ngoại xâm của dân tộc. Những ai cho rằng trong cuộc trường chinh giải
phóng, thống nhất, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam có yếu tố “nội chiến”
thì thực chất, đó chỉ là sự cố tình đánh tráo khái niệm, ngoảnh mặt làm ngơ trước
sự thật lịch sử, sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức lịch sử,
xuyên tạc một trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc./.
--------------------
(1) R.S. Mc Namara:
Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 44
(2), (3) Christian
G. Appy: “What Was the Vietnam War About?”, The New York Times, ngày 26-3-2018,
https://www.nytimes.com/2018/03/26/opinion/what-was-the-vietnam-war-about.html
(4) Ban Chỉ đạo tổng
kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 447
(5) Theo số liệu của
Viện Quốc tế nghiên cứu chiến tranh (IISS) Luân Đôn, chi phí cho chiến tranh
lên tới 720 tỷ USD. Xem: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính
trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 496
(6), (7) Ban Chỉ đạo
tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam
1945 - 1975: Thắng lợi và bài học, Sđd,
tr. 508
(8) Hàn Quốc,
Phi-líp-pin, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan, Niu Di-lân
(9) 61% trong số đó
là chất da cam, chứa 366 kg đi-ô-xin xuống gần 26.000 thôn, bản, với diện tích
hơn 3,06 triệu héc-ta; trong đó 86% diện tích bị phun rải hơn hai lần, 11% diện
tích bị phun rải hơn 10 lần. Xem: Nỗi đau da cam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2012, tr. 21
(10) Robert S.Mc
Na-ma-ra: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd,
tr. 44
(11) Bộ Quốc phòng -
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954-1975, tập I - Nguyên nhân chiến tranh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr. 117
(12) Gấp 10 lần số
lượng viện trợ cho Đài Loan (Trung Quốc) (2.109 triệu USD) và gần 3 lần mức viện
trợ cho Hàn Quốc (7.277 triệu USD). Theo Douglas C. Dacy: Foreign aid, war and
economic development South Vietnam 1955 - 1975, Cambridge University Press,
1986, tr. 245
(13) Edward Miller:
Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2016, tr. 17
(14) Lý Nhân: Nguyễn
Cao Kỳ trở về đất mẹ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 252
(15) Lời phát biểu từ
chức của Nguyễn Văn Thiệu ngày 21-4-1975. Xem
https://www.youtube.com/watch?v=_OTSQ4F0GHM
(16) Christian G.
Appy: “What Was the Vietnam War About?”, Tlđd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét