[QĐND] Đảng Cộng sản Việt Nam là ngọn cờ tập hợp và dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi theo con đường đã chọn: Độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện sự vững vàng về lập trường, quan điểm, về phương hướng, đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, trung thành một cách sáng tạo với lý tưởng, mục tiêu XHCN của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tầm vóc cách mạng của
đường lối đổi mới
Năm 1986, cải tổ diễn ra ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu. Cũng thời điểm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới với quyết định lịch sử từ Đại
hội VI của Đảng. Đón kịp và tận dụng thời cơ, dũng cảm vượt qua thách thức, đó
là quyết định đúng đắn, sáng suốt và bản lĩnh của Đảng ta trong bối cảnh quốc tế
diễn biến phức tạp và tình hình trong nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
về kinh tế-xã hội.
Cải tổ thất bại do mất phương hướng chính trị và vấp phải những
sai lầm về nguyên tắc, quan điểm, đường lối và chính sách, vì thế chế độ XHCN ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Hệ thống XHCN thế giới tan rã. CNXH và
phong trào cách mạng lâm vào thoái trào, dù là tạm thời. Trật tự thế giới thay
đổi. Lịch sử ở trong một khúc quanh đầy thử thách. Các thế lực thù địch, chống
cộng, chống CNXH với những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tinh vi, thâm độc
và áp dụng những thủ đoạn phá hoại trắng trợn đã không ngớt rêu rao về “sự cáo
chung của ý thức hệ cộng sản” (Chủ nghĩa Mác-Lênin), về sự “kết thúc CNXH”; rằng,
lựa chọn CNXH là một sai lầm, là đi vào ngõ cụt, bế tắc, dẫn đến nghèo khổ, lạc
hậu, chỉ có đi theo còn đường và mô hình phương Tây mới đem lại tự do, văn
minh, sự giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc (!).
Trong những năm đầu đổi mới, các nước phương Tây vẫn tiếp tục
bao vây, cấm vận Việt Nam, kích động các phần tử bất mãn, chống đối tấn công
vào sự lãnh đạo cầm quyền của Đảng ta. Chúng ra sức cổ xúy cho chủ nghĩa tự do
mới, kinh tế thị trường tự do, đa nguyên, đa đảng, coi đó là cần thiết để có
dân chủ, tự do. Chúng toan tính rằng, muốn xóa bỏ CNXH và Đảng Cộng sản Việt
Nam thì bằng mọi cách phải hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, reo rắc hoài nghi
trong các tầng lớp dân chúng, nhất là đối tượng thanh niên, trí thức, văn nghệ
sĩ, làm xói mòn niềm tin ý thức hệ, đi theo lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền
và các lợi ích vật chất, kích động chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Đó là những độc tố có sức phá hủy từ bên trong để chính chúng ta tập nhiễm
thì sẽ tự phá hủy cơ đồ sự nghiệp của mình.
Cùng với sớm nhận rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
nguy hại của các thế lực thù địch, phản động để giữ vững thế chủ động trong cuộc
chiến không có tiếng súng này, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII nhằm tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lần đầu tiên Đảng đã thẳng thắn
nêu ra 27 biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đề ra hàng loạt giải pháp nhằm làm
cho Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững phương hướng chính trị, không phạm sai
lầm về quan điểm, đường lối để đưa phong trào cách mạng tiếp tục tiến lên.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh minh họa / TTXVN |
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền một cách chính danh, chính
đáng và xứng đáng với ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, bằng trí tuệ khoa học được
vũ trang bởi lý luận tiên phong của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, bởi kinh nghiệm phong phú tích lũy được trong lịch sử đấu tranh cách mạng,
bởi bản lĩnh chính trị được tôi luyện từ thực tiễn và nhất là có sự gắn bó máu
thịt với nhân dân, có sức mạnh từ lòng dân. Theo đúng bí quyết của Hồ Chí Minh
đã chỉ dẫn: Được dân tin, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo vệ thì
cách mạng sẽ thành công.
Tiến hành đổi mới, Đảng ta cân nhắc tỉnh táo, sáng suốt khi
xác định tiền đề, điều kiện tiên quyết để đổi mới là ổn định chính trị-xã hội.
Đó là ổn định tích cực, đem lại lợi ích cho dân, trước hết là lợi ích kinh tế.
Dân cảm nhận và dân thụ hưởng trực tiếp lợi ích đó bằng việc làm, thu nhập để
nâng cao đời sống, từ đó dân ủng hộ và đồng hành với Đảng, cùng đổi mới. Mất ổn
định, xã hội rối loạn, lòng dân không yên thì không một chương trình đổi mới
nào có thể thực hiện được.
Từ nhận thức đó, Đảng lựa chọn mắt xích xung yếu là kinh tế,
phải tập trung đổi mới kinh tế, phát triển sản xuất, khắc phục lạm phát đang
“phi mã” (hơn 770%) để từng bước ổn định đời sống nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng.
Phải trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, có thành công bước đầu để dân tin
mà đổi mới chính trị, trước hết là hệ thống chính trị một cách thận trọng, có
nguyên tắc. Từ thực tiễn đổi mới đã xuất hiện những tín hiệu thành công, sau
này Đảng ta nhấn mạnh, đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị.
Hai đột phá lớn của Đảng ta về lý luận và thực tiễn là phát
triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là thành tựu chung
của nhân loại đạt được trong thời đại tư sản chứ không phải của riêng giai cấp
tư sản. Đó là đòi hỏi tất yếu để phát triển, là động lực để giải phóng và phát
triển lực lượng sản xuất. Đó cũng là tác nhân kinh tế và chính trị cần thiết để
xây dựng nền dân chủ hiện đại mà CNXH có thể và cần phải áp dụng, nhất là những
nước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đây
là trù tính chính xác của Đảng về nhận thức lý luận và quyết sách chính trị của
Đảng ta.
Một trong những thành công nổi bật của đổi mới ở nước ta là
giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, dù phải mất một thập kỷ
(1986-1996), không để xảy ra khủng hoảng chính trị, khi đi vào đổi mới hệ thống
chính trị và chính trị nói chung mà nhiều nước đã vấp phải, kết cục là đổ vỡ thể
chế, đảng mất vai trò cầm quyền. Đảng ta đi tiên phong trong đổi mới, tự ý thức
được yêu cầu hệ trọng, phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng để thúc đẩy đổi mới toàn xã hội.
Đảng ta đã sớm nhận thức và hành động theo yêu cầu đó. Lãnh
đạo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội,
có nhà nước pháp quyền đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải nhận thức và hành động
đúng quy luật, ở đây là các quy luật của kinh tế thị trường, lại duy nhất một đảng
cầm quyền nên phải bảo đảm phát huy dân chủ, phải xử lý mọi vấn đề trong lãnh đạo,
cầm quyền sao cho hợp hiến, hợp pháp, không vi hiến mà trái lại còn tuân thủ
pháp luật, tôn trọng nhà nước và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, chủ trương xây dựng
cơ chế bảo hiến, chú trọng kiểm soát quyền lực, không để quyền lực do dân ủy
thác bị tha hóa.
Hai lĩnh vực rường cột của phát triển đất nước là kinh tế và
chính trị. Đảng ta đã đạt được phát kiến lớn là kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN, khẳng định quyền lực tập trung thống nhất ở
nhân dân, không phân chia quyền lực theo “tam quyền phân lập”, thực hiện phân
công và phối hợp giữa các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp để thực hiện sự
ủy quyền của dân và phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân.
Cương lĩnh 1991 và cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của
Đảng thực sự là ngọn cờ tập hợp và dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi theo con đường
đã chọn: Độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện sự vững vàng về lập trường, quan điểm,
về phương hướng, đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, trung
thành một cách sáng tạo với lý tưởng, mục tiêu XHCN của Chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, đổi mới của Việt Nam thực
sự mang tầm vóc của một cuộc cách mạng.
Giá trị bền vững của
hệ tư tưởng của Đảng
Kẻ thù của những người cách mạng, của các đảng chân chính
cách mạng thường kích động xã hội, thậm chí dùng cả những thủ đoạn mị dân khi
cho rằng Chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, cách xa thời nay hàng thế kỷ, không còn phù
hợp trong xã hội mà dòng chảy thông tin đang cuồn cuộn như bão táp. Chủ nghĩa
tư bản hiện đại đã khác xa với những điều phê phán, phủ định của Mác-Ăngghen.
Chủ nghĩa Lênin cũng không còn giá trị khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp
đổ. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng từ đó mà hết vai trò vì cũng chỉ là bản sao từ
Mác-Lênin.
Đó là những đánh giá võ đoán, chủ quan, những suy diễn hời hợt
ẩn giấu những tâm địa đen tối, chỉ cổ vũ cho những kẻ chống đối và lừa bịp được
một số người kém hiểu biết. Về thực chất, đó là sự xuyên tạc lịch sử và xúc phạm
văn hóa nhân loại, bởi Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh là đại biểu cho tinh
hoa trí tuệ của thời đại mình, là những lãnh tụ kiệt xuất và danh nhân văn hóa
đã khai sáng, khai trí, khai tâm cho loài người tiến bộ, cho các dân tộc đấu
tranh để thực hiện những giá trị cao quý, tôn vinh phẩm giá con người, hướng cuộc
đời tới chân-thiện-mỹ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin với hệ thống các giá trị bền vững mãi
mãi còn tỏa sáng, soi đường đi cho nhân loại trong cuộc hành trình từ “vương quốc
của tất yếu đến vương quốc của tự do”. Luận điểm của Mác-Ăngghen trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848) nói rằng, “sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” chính là khẳng định
bản chất nhân văn của CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Lênin không chỉ đề xướng
Chính sách kinh tế mới (NEP), trở thành nhà cách tân vĩ đại đầu tiên của CNXH
hiện thực trong lịch sử mà còn đưa ra dự báo đầy tính hiện đại rằng, sớm muộn,
trước sau thì tất cả các dân tộc sẽ đi tới CNXH. Bản chất quốc tế của CNXH vẫn
bao hàm những đặc điểm lịch sử, văn hóa, những sắc thái riêng của từng dân tộc.
Điều đó có nghĩa là, bản chất, mục tiêu của CNXH là một cái chung phổ biến, những
con đường và mô hình xây dựng CNXH là phong phú, đa dạng. Đó là văn hóa thống
nhất, bao hàm những khác biệt.
Hồ Chí Minh từ thực tiễn Việt Nam gắn liền với thực tiễn thế
giới, đã từng xác định, xây dựng CNXH là xây dựng một xã hội văn hóa cao, thấm
nhuần quan điểm phát triển, sao cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống
tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ”.
Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn đó của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, CNXH khoa học đã từng được đề cập trong di sản tư tưởng của các nhà
kinh điển mác xít. Đặc biệt là Hồ Chí Minh, người suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc,
dân tộc, nhân dân và nhân loại, theo đuổi đến cùng hệ giá trị Độc lập-Tự do-Hạnh
phúc.
Đổi mới của Việt Nam với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử không chỉ đem lại lợi ích thiết thân cho mỗi người, mỗi gia đình và cả
cộng đồng, mà còn củng cố niềm tin và tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta. Đổi mới của Việt Nam được dư luận quốc tế và thế giới đánh giá cao. Đó là sự
trung thực, xác tín của lịch sử về giá trị, sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh từ thực tiễn, kinh nghiệm và bài học của Việt Nam trong đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh “Phát triển kinh tế-xã hội
là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Đó thực sự là một
khái quát lý luận của Đảng, là thông điệp phát triển, là đường lối, chính sách
phát triển mà Đảng ta đã truyền tới đông đảo nhân dân ta và bạn bè, đối tác
trên thế giới, tràn đầy niềm tin và hy vọng.
(còn nữa)
GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét