V.I.Lênin - nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản toàn thế giới đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do cho các dân tộc, vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Những di sản mà Lênin để lại cho toàn thể nhân loại tiến bộ là vô cùng to lớn trên cả phương diện lý luận và từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Ðối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng của V.I.Lênin không chỉ là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng mà vẫn đang tiếp tục chỉ dẫn cho mỗi bước đi trong chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.
Nhiều hoạt động tại
thủ đô Moskva (Liên bang Nga) nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của V.I.Lenin,
21/1/2024. (Ảnh: nhandan.vn)
Hòng thực hiện âm mưu làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, một trong những mục tiêu các thế lực thù địch tập trung thực hiện
chính là đòi xóa bỏ sự lãnh đạo duy nhất, trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối, mọi
mặt của Ðảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam.
Ðể thực hiện mục tiêu này, các đối tượng tuyên truyền luận
điệu: Ðảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng mà
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì chính trị nảy sinh trên cơ sở kinh
tế, phản ánh kinh tế và chính trị do kinh tế quyết định. Bởi vậy theo họ, ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới đang thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần,
nhiều hình thức sở hữu cho nên theo quy luật kinh tế quyết định chính trị thì
Việt Nam phải tiến hành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chỉ có thực hiện
đa nguyên, đa đảng đại diện cho lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau
trong xã hội thì mới thật sự bảo đảm dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Ðây là sự xuyên tạc vô căn cứ và cũng không đúng với quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Xuất phát từ lập trường duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đúng là chính trị là sự phản ánh kinh tế, kinh tế quyết định chính trị, sự biến đổi của đời sống chính trị suy cho cùng bắt nguồn từ sự biến đổi của đời sống kinh tế.
Tuy nhiên, về vấn đề này V.I.Lênin khẳng định: "Chính
trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"; "chính trị tức là kinh tế
được cô đọng lại".
Ở đây, V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng: chính trị phản ánh kinh tế
và xét đến cùng do kinh tế quyết định nhưng chính trị không phải là tấm gương
soi của kinh tế theo nghĩa kinh tế có gì thì chính trị phải có cái đó. Nghĩa là
chính trị không phản ánh tất cả những quan hệ vô cùng phong phú, đa dạng, phức
tạp của kinh tế mà chỉ phản ánh những quan hệ đặc trưng cốt lõi nhất của kinh tế,
đó chính là quan hệ sản xuất mà trung tâm nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Do đó, khi nhìn vào bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào thì căn cứ vào quan
hệ sản xuất thống trị và quan hệ sở hữu thống trị, chi phối trong kinh tế,
chúng ta có thể nhận diện rõ bản chất chế độ chính trị của quốc gia đó là như
thế nào. Theo đó, một nền kinh tế do chế độ sở hữu tư nhân thống trị và chi phối
(thiểu số giai cấp thống trị nắm trong tay những tư liệu sản xuất vật chất chủ
yếu trong xã hội) thì tất yếu không thể có một nền chính trị thật sự dân chủ
dành cho mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội mà đó chỉ là nền dân chủ dành cho
thiểu số giai cấp thống trị. Ngược lại chỉ khi nào chế độ công hữu giữ vai trò
chủ đạo, chi phối trong nền kinh tế (mọi giai tầng cùng nhau sở hữu những tư liệu
sản xuất vật chất chủ yếu) thì mới có cơ sở để xây dựng một chế độ chính trị thật
sự dân chủ cho tất cả mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người dân trong xã hội.
Từ đây, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã luận chứng cho việc
muốn có một nền dân chủ thật sự tiến bộ dành cho tất cả mọi giai tầng trong xã
hội thì nhất định phải dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chừng nào
chưa làm được điều này thì sẽ không làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị
dù nó có tồn tại dưới hình thức nào đi chăng nữa.
Từ luận điểm của V.I.Lênin soi chiếu vào thực tiễn Việt Nam
thời kỳ đổi mới có thể thấy: bước sang thời kỳ đổi mới Ðảng ta chủ trương khôi
phục lại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu và coi đây là
đặc trưng xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ðiều này
được khẳng định ngay từ Ðại hội VI (1986) - Ðại hội đánh dấu đường lối đổi mới
sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của Ðảng: "coi nền kinh tế
có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".
Tuy nhiên, điểm cần lưu ý ở đây là các thành phần kinh tế Việt
Nam không phát triển tự do mà phát triển theo định hướng chung - định hướng xã
hội chủ nghĩa với sự chi phối của chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ
yếu và vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước. Chủ trương này được thể hiện nhất
quán ngay từ những nhiệm kỳ Ðại hội đầu của thời kỳ đổi mới: Ðại hội VII:
"thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa"; Ðại hội VIII: "phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa". Và ngay tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Ðảng ta thông qua tại Ðại hội VII năm 1991
cũng chỉ rõ một trong 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam xây dựng đó
là: "Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu".
Do đó, mô hình kinh tế tổng quát mà Việt Nam lựa chọn trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với đặc trưng cơ bản: gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình
phát triển, bảo đảm kết quả tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho lợi ích của
toàn thể nhân dân vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Ðiều này được Ðảng khẳng định rõ trong Văn kiện Ðại hội XIII
tổng kết sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước: "Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước".
Như vậy, với một nền kinh tế chung phát triển thống nhất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự chi phối của chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu và vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước thì việc có một
Ðảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, cách mạng và xã hội - Ðảng Cộng sản
Việt Nam - "Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" - tất yếu
vẫn đi theo quy luật kinh tế quyết định bản chất của chế độ chính trị như các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và cũng hoàn toàn đúng với quan
điểm của V.I.Lênin.
Ðồng thời cần phải nhận thức sâu sắc một sự thật rằng, đa
nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ và nhất nguyên chính trị, một đảng
cầm quyền không đồng nhất với phản dân chủ như những gì mà các thế lực thù địch
vẫn rêu rao, tuyên truyền. Dân chủ hay không, dân chủ đến đâu và nền dân chủ đó
dành cho ai, cho một giai cấp hay toàn thể xã hội xét đến cùng vẫn phụ thuộc
vào chính bản chất của chế độ kinh tế nhất là chế độ sở hữu như V.I.Lênin đã chỉ
rõ.
Từ thực tế có thể thấy, tại nhiều nước tư bản hiện nay đang
thực hiện chế độ đa đảng, song ở các nước này, quan hệ sản xuất thống trị vẫn
là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ sở hữu chi phối vẫn là sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nghĩa là thiểu số giai cấp tư sản thống
trị vẫn nắm trong tay những tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu trong xã hội. Do
đó, tương ứng với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì nền chính trị ở
các nước tư bản không thể trở thành nền chính trị dân chủ dành cho các giai tầng
trong xã hội mà đó chỉ là nền dân chủ tư sản dành cho giai cấp cầm quyền trong
xã hội, và tất yếu dù có nhiều đảng phái chính trị cùng tồn tại nhưng đảng cầm
quyền, nắm quyền quyết định vẫn là đảng của giai cấp tư sản. Và tất yếu, trên
cơ sở của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhà nước tư sản cũng không
có cơ sở trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như nhiều học
giả tư sản hiện nay vẫn khẳng định mà suy cho cùng nhà nước đó cũng chỉ chủ yếu
đại diện cho quyền, lợi ích của giai cấp tư sản.
Ðối với Việt Nam, mặc dù chúng ta phát triển kinh tế nhiều
thành phần, nhiều hình thức sở hữu nhưng trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và chế độ công hữu giữ vai trò chi phối, do đó, tương ứng với chế độ
sở hữu như vậy, Việt Nam mới có cơ sở để xây dựng nền dân chủ thật sự tiến bộ
cho tất cả mọi người - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có cơ sở để xây dựng nhà
nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng của V.I.Lênin nói riêng vẫn đang tiếp tục
đồng hành cùng toàn Ðảng và toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Ðảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa./.
TS. HOÀNG THU TRANG (nhandan.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét