Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

Không thể đánh tráo bản chất, bôi đen Chiến thắng 30/4/1975

[CAND] Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng cứ mỗi dịp 30/4, khi nhân dân cả nước kỷ niệm, ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc thì trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị tái diễn điệp khúc xuyên tạc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Tái diễn những luận điệu sai trái, xuyên tạc

30/4/1975 là một ngày lịch sử trọng đại - ngày hội thống nhất non sông, Bắc Nam một dải. Đó là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực dân, đế quốc hùng mạnh. Vẫn luận điệu cũ, một bộ phận người Việt vốn từng ở bên kia chiến tuyến trở lại điệp khúc ta thán về cái gọi là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”, “ngày tắm máu”…

Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu

Vì cho đến hôm nay, họ vẫn không nhìn thẳng để công nhận một sự thật lịch sử, đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, là cuộc chiến tranh vệ quốc, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông. Gần nửa thế kỷ hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng thịnh vượng, phát triển, dân tộc ta với tinh thần hòa hiếu gác lại quá khứ chứ không bao giờ phủ nhận, lãng quên quá khứ.

Di chứng, hậu quả chiến tranh, sự hy sinh, mất mát sau chừng ấy năm chiến tranh kết thúc thì ở nhiều làng mạc, thôn xóm vẫn còn hiện hữu.

Để làm nên chiến thắng đó, quân và dân Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đi đến thắng lợi cuối cùng, non sông Việt Nam thu về một mối. Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta. Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là sự kế tục và phát triển cao độ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp, là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đó là chiến thắng không thể phủ định và để có chiến thắng đó, nhân dân ta đã phải chiến đấu trường kỳ, hy sinh biết bao xương máu.

Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn không nhìn thẳng vào sự thật, luôn cố tình đánh tráo, xuyên tạc bản chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975. Những ngày gần đây, chúng đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh sai lệch, xuyên tạc trên Internet, các trang mạng xã hội, tìm cách phủ nhận thành quả của cuộc kháng chiến trường kỳ của quân và dân cả nước. Hàng trăm bài viết kèm các hình ảnh phản cảm dưới tiêu đề “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” được chia sẻ, lan truyền trên mạng xã hội để hướng lái dư luận, đánh tráo bản chất chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cùng với đó, chúng ca ngợi chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn; đòi vinh danh chế độ Việt Nam Cộng hòa, thậm chí có ý kiến còn đòi chia đôi lại đất nước giống như trước năm 1975. Từ đó, các đối tượng phủ định ý nghĩa Chiến thắng 30/4/1975, đòi từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên trì xây dựng; bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động hận thù, ly khai; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân; làm giảm ý chí quyết tâm, đóng góp xây dựng đất nước của nhân dân, trong đó có đồng bào ta sống xa Tổ quốc; cố tình đả kích, phủ nhận chính sách và nỗ lực hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta… Nhiều bài viết với nội dung sai trái, tiêu cực được đăng tải trên Internet như: “Tháng tư vẫn là một kỷ niệm đau buồn cho những người ly hương vì mất nước”;  “tháng tư là tháng vo gạo bằng nước mắt”; “tháng tư là tháng tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa bị những người lính cộng sản giết một cách man rợ”; “mỗi năm đến ngày 30/4 thì vết thương lại nhức nhối trong lòng”; “tháng tư quốc hận, xin nghiêng mình tưởng niệm những nạn nhân đã ra đi không đến bến bờ và xin ngưỡng mộ những người đã bỏ hết những gì có được, ra đi để lập lại cuộc đời trên đất nước tự do”…

Một số bài viết cố tình xuyên tạc rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đại thắng mùa xuân 1975 của chúng ta là “hoàn toàn vô nghĩa, lẽ ra dân tộc Việt Nam đã có thể tránh được cuộc chiến tranh”; vu cáo đây là cuộc “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc, “không có kẻ thua, người thắng, chỉ nhân dân là chịu thiệt thòi”; cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “không cần thiết” và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”… Gần đây, trên một số trang mạng, website, blog cá nhân của các phần tử cơ hội chính trị phát tán nhiều tin, bài xuyên tạc, đòi “định danh lại ngày 30/4 cho phù hợp” vì không chấp nhận 30/4 là ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cho rằng “không nên gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng”! Thậm chí, dưới danh nghĩa hòa hợp, hòa giải dân tộc, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị còn đưa ra luận điệu cho rằng chỉ khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, chỉ khi nào Việt Nam lựa chọn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có thể thực hiện việc hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các đối tượng tìm cách chia sẻ, lan truyền trên các fanpage, facebook của các tổ chức, cá nhân chống đối với rất nhiều comment cổ súy, “té nước theo mưa”…

Không dừng ở việc xuyên tạc trên mạng xã hội mà số đối tượng chống đối mới đây còn xây dựng một bộ phim được gọi là “Cảm tình viên” (The Sympathizer) được quay tại Thái Lan, tái hiện lại Việt Nam thời kỳ trước năm 1975. Nội dung kể về hành trình của một người tình báo cộng sản nằm vùng trong bộ máy nguỵ quân, sau ngày giải phóng tiếp tục hoạt động tình báo, sau đó theo đám phản động lưu vong về nước. Nhân vật này có sự thay đổi nhận thức khi vào trong trại cải tạo, lung lạc tinh thần và cuối cùng trốn chạy sang Mỹ vì cho rằng chỉ có tư tưởng của Mỹ mới tiến bộ, nhân văn. Với nội dung xuyên tạc như vậy, bộ phim được công chiếu ngay sát thời điểm kỷ niệm chiến thắng 30/4, với ý đồ tiêu cực, xuyên tạc chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Chúng còn tổ chức những buổi hòa nhạc kệch cỡm, kêu gọi ủng hộ “ngày quốc hận”, tổ chức tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa, phủ nhận toàn bộ công lao của quân và dân ta…

Biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người

Ngày 30/4/1975 không phải là “ngày quốc hận” mà là ngày quốc gia độc lập, thống nhất non sông, ngày mở ra một trang sử mới hào hùng cho dân tộc Việt Nam. Đó là khát vọng của nhân dân cả nước, thống nhất Bắc – Nam để chung sức đồng lòng xây dựng giang sơn gấm vóc. Vì vậy, nói ngày 30/4/1975 là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” thể hiện suy nghĩ thù hận, bóp méo bản chất, ý nghĩa thiêng liêng của ngày thống nhất non sông, quan điểm đó đi ngược lại với dòng chảy của lịch sử.

Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cầu Hiền Lương, sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) của tỉnh Quảng Trị trở thành giới tuyến quân sự tạm thời phân chia nước ta thành 2 miền Nam - Bắc. Theo Hiệp định, sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Thế nhưng, với âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, Mỹ đã cho quân xâm lược miền Nam và tìm mọi cách để đánh chiếm miền Bắc, buộc nhân dân ta phải sống, chiến đấu anh dũng suốt 21 năm ròng rã. Đến ngày 30/4/1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta mới trọn niềm vui thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hơn hai mươi năm, dân tộc ta đã đi qua cuộc trường chinh muôn vàn gian khổ, gánh chịu bao mất mát, hy sinh để giải phóng đất nước, thống nhất non sông. Đấy là chân lý thời đại, là cái "dĩ bất biến" của một dân tộc yêu nước, yêu hòa bình chứ không phải là ý niệm và hành động của kẻ hiếu chiến, kích hoạt xung đột.

Thắng lợi đó khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam; một biểu tượng sáng ngời của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế, cũng chính là chiến thắng của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Nó thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua hơn 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng đúc kết những kinh nghiệm quý báu. Đó là bài học xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam. Bài học về sự chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật nắm bắt thời cơ, giành những thắng lợi quyết định. Đồng thời, phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy năng lực lãnh đạo của Đảng.

Lâu nay, chúng ta đón nhận những người từ bên kia chiến tuyến trở về với tinh thần gác lại quá khứ, chung tay xây dựng đất nước. Quan điểm hòa hợp, hòa giải bằng tinh thần bao dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước. Nhưng chung tay hoà hợp không có nghĩa là xoá nhoà lịch sử, làm sai lệch bản chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc. Chiến thắng 30/4/1975 là mốc son lịch sử, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được nhiều nước trên thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh. Mọi sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị đều không thể làm phai nhạt giá trị, ý nghĩa lịch sử. 

Đại thắng mùa xuân 30/4/1975 được coi là ngày hội thống nhất non sông không chỉ của người dân sinh sống tại Việt Nam mà còn là ngày hội của hàng triệu đồng bào ta đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Ngày hội thống nhất non sông mang ý nghĩa cao cả và có tầm vóc to lớn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta. Quá khứ được ghi ơn một cách trân trọng, sâu sắc và điều quan trọng hơn là lời nhắc nhở về tinh thần yêu quý hòa bình, hòa giải, hòa hợp và đoàn kết dân tộc. Đánh giá tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4, Đại hội lần thứ IV của Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Do đó, mỗi người khi tham gia mạng xã hội cần tỉnh táo, nâng cao tinh thần cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật của các tổ chức, cá nhân phản động, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bình Nguyễn - Đặng Thanh Ngà

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục có báo cáo sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

[CAND] Ngày 22/4/2024, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố báo cáo nhân quyền năm 2023 và tiếp tục đưa ra những thông tin phiến diện, sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Đây là điều đáng tiếc khi hai quốc gia đang nỗ lực tăng cường hợp tác, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng những đặc thù, khác biệt để cùng tìm ra tiếng nói chung trong lĩnh vực quyền con người, xóa bỏ những áp đặt và tránh chính trị hóa các vụ việc hành chính, hình sự.

Ảnh minh họa

Vẫn điệp khúc đánh giá sai lệch về nhân quyền ở Việt Nam

Trong báo cáo nhân quyền năm 2023, khi đề cập đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam dài 59 trang, Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục cho rằng “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”. Cùng với đó, trong lần thứ 48 đưa ra báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền, Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục đưa ra những thông tin, số liệu nhằm chỉ trích, phê phán, cho rằng Việt Nam bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội...

Để minh chứng cho những nội dung được đưa ra trong bản báo cáo, như thường lệ, Bộ Ngoại giao Mỹ đã liệt kê nhiều đối tượng được họ cho là “các nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” như Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành... Thực chất, đây đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự, bị bắt giữ, điều tra, có đối tượng đã được đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án đúng người, đúng tội.

Việc các đối tượng có hành vi phạm tội bị xử lý nghiêm minh, được người dân Việt Nam đồng tình, ủng hộ nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ lại dẫn chứng để thông tin sai lệch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng: “Chính phủ Việt Nam tiếp tục sử dụng các điều luật về an ninh quốc gia và những quy định mơ hồ khác của Bộ luật Hình sự để bỏ tù các nhà hoạt động bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa trên mạng và các nhà bất đồng chính kiến”...

Việt Nam luôn tôn trọng thể chế chính trị và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác

Một trong những nguyên tắc mang tính nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại và được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc là không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Đồng thời, một trong những nguyên tắc cũng mang tính chất nền tảng giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đó là tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Đối với Mỹ, Việt Nam cũng đã luôn nêu cao quan điểm sẵn sàng trao đổi, đối thoại về những vấn đề còn khác biệt trên tinh thần xây dựng, thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng thể chế chính trị, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; đóng góp vào việc thúc đẩy Đối tác chiến lược toàn diện, vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ.

Những năm qua, Việt Nam luôn chủ động cung cấp, trao đổi, đối thoại về những thông tin, số liệu, tình hình về tất cả các lĩnh vực, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền mà phía Mỹ quan tâm. Trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế và xuất phát từ thực tiễn cụ thể của mỗi nước, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tương thích với các chuẩn mực quốc tế và tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho thúc đẩy, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Vậy nhưng, bên cạnh việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra các báo cáo nhân quyền với những nội dung thông tin sai lệch, phiến diện, thiếu khách quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam thì hằng năm, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) cũng thường xuyên đưa ra các cáo buộc sai lệch về thực tiễn đời sống tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam, trong đó có việc đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL) từ năm 2022.

Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng, điều phi lý là việc Mỹ tự cho mình quyền đi phán xét hay áp đặt vấn đề nhân quyền lên các quốc gia khác trong khi nhiều vấn đề ngay nội tại của đất nước Mỹ cũng vi phạm nghiêm trọng về quyền con người, quyền công dân thì không được nhắc đến. Những vấn đề về phân biệt chủng tộc, sắc tộc, màu da, phân biệt giàu nghèo, nạn bạo lực, các vụ xả súng giết chết nhiều người... là những gì mà hàng triệu người dân Mỹ đang phải đối diện hằng ngày thì không được họ đề cập trong bản báo cáo về nhân quyền hằng năm?!

Việt Nam luôn nỗ lực trong bảo đảm quyền con người

Tôn trọng, bảo đảm quyền con người là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, được cụ thể trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Việt Nam luôn thể hiện tính tích cực, có trách nhiệm trong quá trình triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết về quyền con người. Hiện nay, các quyền tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được thể hiện minh chứng sống động trong thực tiễn đời sống của người dân. Trong nhiều lần phát biểu trước báo chí, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình Đổi mới và công cuộc phát triển đất nước và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Thông qua các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực rất lớn trong bảo đảm quyền con người, nhất là trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể như trong Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ IV của Việt Nam đã được tiến hành một cách nghiêm túc, toàn diện, có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan cũng như các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam. Trong đó đã dẫn chứng cụ thể những thành tựu của Việt Nam về giảm nghèo đa chiều bền vững, đảm bảo an sinh xã hội (hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...), nâng cao đời sống của người dân, đảm bảo quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người bị nhiễm HIV/AIDS...) và các hoạt động đối thoại, hợp tác quốc tế và khu vực về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Từ năm 2019 đến tháng 11/2023, Việt Nam tiếp tục nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền với 44 luật được thông qua, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền của công dân như: Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình  năm 2022; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023... Đồng thời, Việt Nam cũng đã gia nhập thêm Công ước thứ 98 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền tổ chức và thương lượng tập thể, Công ước 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức và tham gia đàm phán, chính thức tham gia thỏa thuận toàn cầu về di cư an toàn và trật tự... Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao Đối tác chiến lược toàn diện với 7 quốc gia; quan hệ Đối tác chiến lược với 11 quốc gia và quan hệ Đối tác toàn diện với 13 quốc gia.

Không chỉ nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm quyền con người, thời gian qua, Việt Nam đã luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Minh chứng rõ nét nhất cho điều đó là thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đã có nhiều sáng kiến về bảo đảm quyền con người, quyền lợi của các nước đang phát triển, quyền của các nhóm yếu thế... được cộng đồng quốc tế và các quốc gia ghi nhận, đánh giá cao. Đó là những minh chứng điển hình về những thành tựu trong bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đáng tiếc thay, Bộ Ngoại giao Mỹ lại phớt lờ những sự thật trên khi chỉ thu thập thông tin từ những nguồn không chính thống, từ những cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, chống phá Việt Nam để từ đó có những báo cáo, đánh giá sai lệch, làm ảnh hưởng đến uy tín và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Phan Dương

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Trị bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở cơ sở

[QĐND] Cán bộ, đảng viên là hạt nhân xây dựng tổ chức cơ sở đảng, là cầu nối giữa Ðảng với nhân dân; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Chất lượng của cán bộ, đảng viên cơ sở nói chung, năng lực quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của các tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động đến hiệu quả quán triệt, triển khai và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn, còn có những biểu hiện của bệnh giáo điều đặt ra những yêu cầu mới cần ngăn ngừa kịp thời, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Nhận diện bệnh giáo điều

Bệnh giáo điều là khuynh hướng cường điệu hóa vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử, cụ thể. Những người bị bệnh giáo điều thường tiếp thu lý luận một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính; biến lý luận thành những công thức chết cứng, chìa khóa vạn năng cho mọi hành động hoặc áp dụng rập khuôn, máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác. Cho nên, khi xác định biện pháp lãnh đạo, không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, xa rời thực tiễn.

Bệnh giáo điều thường biểu hiện dưới dạng hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn, quá lạm dụng sách vở; nghiên cứu học tập lý luận nhưng không chuyển hóa được lý luận vào thực tiễn công tác. Nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ, ở những nguyên lý chung chung, trừu tượng, mượn những lời của Mác, Lênin để làm cho người ta lầm lẫn mà không thâu tóm được bản chất cách mạng và khoa học, không xuất phát từ thực tiễn để vận dụng lý luận.

Một lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đoàn viên thanh niên. Ảnh minh họa: nhandan.vn

Điều này dẫn đến hình thành tư duy lối mòn, thiếu sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo những người giáo điều thường làm trái với chỉ thị của Lênin; họ không phân tích rành mạch việc gì hết; họ viết hoặc họ nói đều là trống rỗng, họ gây nên một tác phong rất xấu trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.

Những người giáo điều thường đọc dăm ba quyển sách, thuộc dăm ba câu chữ để khoe khoang, “lòe thiên hạ” chứ không phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác. Hoặc lý luận chỉ là tổng số những công thức máy móc, đơn điệu, phiến diện, làm cho lý luận không có sức sống, xa rời thực tiễn, không chỉ đạo được thực tiễn. Từ đó lại xuất hiện tư tưởng coi thường lý luận hoặc nói một đằng, làm một nẻo. Nói chỉ là nói lý luận suông, làm thì theo kinh nghiệm vụn vặt của cá nhân.

Xét về tính chất, bệnh giáo điều biểu hiện trên cả hai phương diện lý luận và kinh nghiệm: Giáo điều lý luận là thuộc lòng lý luận một cách máy móc nhưng không hiểu, không nắm được bản chất khoa học, cách mạng của lý luận; nặng về diễn giải sách vở, thoát ly thực tiễn; áp dụng lý luận nhưng không nghiên cứu điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể.

Giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên xi kinh nghiệm đã có sẵn một cách rập khuôn, máy móc mà không có sự sáng tạo, kế thừa, chọn lọc. Xét về phương pháp, giáo điều là xa rời, đối lập với biện chứng; bị kìm hãm, tự kìm hãm bởi tư duy, phương pháp siêu hình nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong trạng thái nhất thành bất biến, không thay đổi, cô lập chúng khỏi những sự vật khác, trong những mối quan hệ khác.

Xét về thái độ, giáo điều thường rất dễ rơi vào định kiến, trì trệ và bảo thủ, dẫn đến chậm thay đổi, ngại thay đổi, lệ thuộc vào những thói quen đã định hình nên khó đổi mới, thậm chí chống lại đổi mới chỉ vì những hạn chế, bất cập trong tư duy, nhận thức, không theo kịp sự vận động, phát triển của thực tiễn.

Tác hại của bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển của tư duy lý luận khoa học, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo. V.I.Lênin cảnh báo, giáo điều là thói quen đáng sợ nhất, vì nó làm cho cán bộ, đảng viên rơi vào định kiến, trì trệ và bảo thủ, ở một mức độ nào đó, bệnh giáo điều là sức ỳ, sự trì trệ, bảo thủ sẽ cản trở phát triển, là lực cản của đổi mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng vì kém lý luận cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào thì làm thế ấy; không biết áp dụng lý luận vào giải quyết thực tiễn trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cho nên thường thất bại trong lãnh đạo, chỉ đạo và công tác.

Ngoài ra, bệnh giáo điều còn biểu hiện ở khuynh hướng tả khuynh, chủ quan và cực đoan, quy kết vội vàng, áp đặt vô nguyên tắc; cản trở sự tìm tòi, sáng tạo, không kích thích phản biện khoa học từ đó dẫn đến mất dân chủ, tự do, tùy tiện, dẫn đến việc quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không sát thực tiễn, không hiệu quả, thậm chí dẫn đến sai lầm, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Ngăn ngừa bệnh giáo điều bằng cách nào?

Trong thời gian qua, công tác giáo dục lý luận chính trị đã đạt được những kết quả quan trọng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước phát triển toàn diện, vững chắc; năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn ngày càng được nâng lên. Song nhìn chung, chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận vào thực tiễn chưa sát, hiệu quả chưa cao.

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, việc cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu khả thi.

Trong đó, bệnh giáo điều vẫn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng đến quá trình đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống; làm cho quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và các chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên không được vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Do đó, để ngăn ngừa bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên, cần thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần xác định công tác giáo dục lý luận chính trị là một nhiệm vụ quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại, gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc giáo dục, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng gắn với bảo đảm tính thống nhất, tính kế thừa và tính liên thông, khắc phục sự trùng lặp ở các cấp học, bậc học và đối tượng.

Đổi mới phương pháp giảng dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm; rèn luyện về phương pháp tư duy. Gắn đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục với phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả.

Thứ hai, nâng cao năng lực nắm bắt, đánh giá thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên (nhất là ở cơ sở) cần tăng cường bám nắm thực tiễn, tích cực nghiên cứu thực tiễn, gần dân, sát dân; chống các biểu hiện làm việc bàn giấy, xa rời thực tiễn. Quá trình nắm bắt, đánh giá thực tiễn sẽ giúp cán bộ, đảng viên tự đánh giá, điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, làm cho hoạt động đúng mục đích, đúng hướng, có cơ sở khoa học, tránh được sự mò mẫm, tự phát.

Thứ ba, nâng cao năng lực vận dụng lý luận vào nhận thức và hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Nâng cao trình độ lý luận và vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo vào thực tiễn; tích lũy kinh nghiệm, vốn sống, năng lực tổng kết thực tiễn một cách có lý luận; biết sử dụng lý luận như một phương pháp để tổng kết thực tiễn, làm cho thực tiễn được lý luận hóa, bên cạnh đó, khắc phục bệnh giáo điều nhưng phải đề phòng chủ nghĩa xét lại; không ngừng học tập, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tri thức phải được kiểm nghiệm thông qua hoạt động thực tiễn chứ không dừng lại ở việc nói, viết theo kiểu chủ nghĩa kinh viện, tầm chương trích cú.

Thứ tư, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở tổ chức cơ sở đảng. Cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy phải thực sự gương mẫu trong chấp hành các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, trong thực hiện nhiệm vụ đảng viên, trong sinh hoạt, lối sống.

Các tổ chức cơ sở đảng cần xây dựng cơ chế thông tin đa chiều, thực hiện minh bạch, công khai thông tin, tăng cường đối thoại, trao đổi, tiếp xúc giữa cán bộ, đảng viên và nhân dân gắn với thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng.

Trung tá, TS NGUYỄN ĐÌNH TƯƠNG

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị thi hành kỷ luật một số tổ chức Đảng, đảng viên

Trong các ngày 23 và 24/4, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp Kỳ thứ 40 dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 40. Ảnh: UBKTTW

Tại Kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã xem xét, kết luận một số nội dung sau:

I- Xem xét kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và kết quả kiểm điểm, đề nghị thi hành kỷ luật đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, UBKT Trung ương nhận thấy:

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm nguyên tắc tự phê bình, phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong công tác cán bộ; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát để Đảng đoàn Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh và nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện một số dự án đầu tư, trong đó có các dự án do Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC), Công ty Cổ phần Tập đoàn FLC, Công ty Cổ phần Tập đoàn Phúc Sơn thực hiện; một số cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, nhận hối lộ, kê khai tài sản cá nhân không trung thực, vi phạm Luật Phòng, chống tham nhũng, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương.

Những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả rất nghiêm trọng, thiệt hại và nguy cơ thiệt hại, lãng phí rất lớn tiền, tài sản của Nhà nước; gây dư luận bức xúc, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và chính quyền địa phương, đến mức phải xem xét, xử lý kỷ luật.

Trách nhiệm đối với những vi phạm nêu trên thuộc về Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc các nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2020 - 2025; Đảng đoàn HĐND tỉnh, Ban cán sự đảng UBND tỉnh Vĩnh Phúc các nhiệm kỳ 2016 - 2021, 2021 - 2026 và các đồng chí: Hoàng Thị Thúy Lan, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Lê Duy Thành, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh, Phạm Hoàng Anh, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy (đã bị Khai trừ ra khỏi Đảng và xử lý hình sự) và các đồng chí: Trần Văn Vinh, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Văn Trì, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Trung Hải, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Bá Huy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Đinh Ngọc Khoa, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật-Hậu cần Công an nhân dân, Bộ Công an, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh; Vũ Chí Giang, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Kim Khải, nguyên Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Phan Thế Huy, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Lê Văn Kiên, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Giao thông vận tải; Khổng Sơn Trường, nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Nguyễn Kim Tuấn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Nguyễn Thanh Tùng, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Tài chính; Nguyễn Đức Tài, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Xây dựng; Đỗ Hữu Vinh, Phó Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông; các đồng chí nguyên Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông: Trần Gia Long, Nguyễn Bá Hiến; đồng chí Nguyễn Văn Độ, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư; Đỗ Đình Việt, nguyên Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư; các đồng chí nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Trưởng Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh: Bùi Minh Hồng, Nguyễn Công Lộc, Nguyễn Xuân Phương; đồng chí Nguyễn Văn Bắc, nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp; Lê Văn Phúc, Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc.

Liên quan đến những vi phạm nêu trên còn có trách nhiệm của một số tổ chức đảng, đảng viên khác.

Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm; căn cứ quy định của Đảng,

1- UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật:

Cảnh cáo: Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2021 - 2026; Ban cán sự đảng UBND tỉnh Vĩnh Phúc các nhiệm kỳ 2016 - 2021, 2021 - 2026 và các đồng chí: Nguyễn Văn Trì, Nguyễn Bá Huy, Đinh Ngọc Khoa, Vũ Chí Giang, Nguyễn Kim Khải, Lê Văn Kiên, Khổng Sơn Trường, Nguyễn Kim Tuấn, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đức Tài, Đỗ Hữu Vinh, Trần Gia Long, Nguyễn Bá Hiến, Nguyễn Văn Độ, Đỗ Đình Việt, Bùi Minh Hồng, Nguyễn Công Lộc, Nguyễn Xuân Phương, Nguyễn Văn Bắc.

Khiển trách: Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2016 - 2021; Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh Vĩnh Phúc các nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2020 - 2025 và các đồng chí: Trần Văn Vinh, Nguyễn Trung Hải, Phan Thế Huy, Lê Văn Phúc.

2- UBKT Trung ương đề nghị: Bộ Chính trị xem xét, thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc các nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2020 - 2025.

3- UBKT Trung ương yêu cầu: Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc quyết định thi hành kỷ luật 17 tổ chức đảng và 17 đảng viên theo kết luận của UBKT Trung ương. UBKT Trung ương tiếp tục xem xét, thi hành kỷ luật các tổ chức đảng và đảng viên khác có liên quan.

II- Xem xét báo cáo đề nghị thi hành kỷ luật một số đảng viên vi phạm tại Đảng bộ các tỉnh An Giang và Sóc Trăng, UBKT Trung ương nhận thấy:

Các đồng chí: Vương Bình Thạnh, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang; Trần Văn Chuyện, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng đã vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả nghiêm trọng, dư luận xấu, làm giảm uy tín của tổ chức đảng và chính quyền địa phương, đến mức phải xem xét, xử lý kỷ luật.

Căn cứ quy định của Đảng, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật: Cảnh cáo đồng chí Vương Bình Thạnh; Khiển trách đồng chí Trần Văn Chuyện.

III- Xem xét kết quả giám sát đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy Thái Bình và Bạc Liêu, UBKT Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy Thái Bình và Bạc Liêu nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, khắc phục kịp thời các vi phạm, khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế làm việc; công tác cán bộ và việc quản lý, sử dụng đất trong các dự án đầu tư; việc kê khai tài sản, thu nhập. UBKT Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu chỉ đạo kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Đảng ủy Sở Tài nguyên và Môi trường, báo cáo kết quả về UBKT Trung ương.

IV- Cũng tại kỳ họp này, UBKT Trung ương đã xem xét, kết luận một số nội dung quan trọng khác.

Theo TTXVN

Giả danh nữ tu sĩ lừa quyên góp từ thiện, chiếm đoạt nhiều tỷ đồng

[CAND] Chiều 24/4, Cơ quan CSĐT Công an TP Đà Nẵng đã tống đạt quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Lê Đình Hải (SN 1998, trú phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh) về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bước đầu, Cơ quan Công an xác định đối tượng đã mạo danh một ni cô để quyên tiền từ thiện và chiếm đoạt nhiều tỷ đồng.

Trước đó, Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an Đà Nẵng (gọi tắt là Phòng An ninh mạng) phát hiện trên Facebook xuất hiện nhiều tài khoản mạo danh Tỳ kheo ni Thích Nữ Tường Phúc (sinh sống tại Huế).

Các tài khoản này thường xuyên đăng tải hình ảnh những hoàn cảnh tai nạn, bệnh hiểm nghèo, neo đơn, mồ côi cha mẹ… kèm theo bài viết kêu gọi người dân quyên góp từ thiện vào các tài khoản ngân hàng.

Cơ quan CSĐT Công an Đà Nẵng bắt giữ Lê Đình Hải.

Tiếp tục xác minh, Cơ quan An ninh xác định các tài khoản Facebook nói trên sử dụng hình ảnh của các bệnh nhân hiểm nghèo đang điều trị ở các bệnh viện trên địa bàn Đà Nẵng để kêu gọi quyên góp nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Phòng An ninh mạng đã phối hợp Văn phòng Cơ quan CSĐT truy xét, phát hiện đối tượng nghi vấn là Lê Đình Hải, đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh. Với các tài liệu, dữ liệu điện tử thu thập được, Cơ quan Công an buộc đối tượng phải thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền từ thiện.

Cơ quan Công an xác định Lê Đình Hải đã tạo nhiều tài khoản mạng xã hội Facebook mạo danh Tỳ kheo ni Thích Nữ Tường Phúc để kêu gọi quyên góp tiền từ tiện giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, bệnh tật nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Rất nhiều người dân đã tin tưởng chuyển tiền ủng hộ từ 20 ngàn đồng đến 2 triệu đồng vào nhiều tài khoản khác nhau do Hải sử dụng.

Với thủ đoạn trên, từ đầu năm 2021 đến thời điểm bị bắt, đối tượng đã chiếm đoạt nhiều tỷ đồng của hơn hàng chục nghìn bị hại trên toàn quốc. Cơ quan chức năng đã khám xét, thu giữ nhiều đồ vật, tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội của đối tượng, trong đó có 12 thẻ ngân hàng các loại với tổng số tiền giao dịch trên 10 tỷ đồng. Riêng số tiền giao dịch qua tài khoản cá nhân của Lê Đình Hải là gần 6 tỷ đồng.

Sau khi củng cố tài liệu chứng cứ, chiều 24/4, Cơ quan CSĐT Công an Đà Nẵng đã ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Lê Đình Hải về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thân Lai

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Việt Nam thể hiện vai trò tiên phong trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người

Sau hơn một năm đảm nhiệm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Những dấu ấn đó là động lực để Việt Nam tiếp tục vững tin thực hiện các trọng trách trong Hội đồng Nhân quyền trong thời gian tới.

Ngày 9/4 (theo giờ Mỹ), Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) đã bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

Được thành lập vào năm 2006, Hội đồng Nhân quyền với tư cách là cơ quan liên chính phủ quan trọng nhất của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm về nhân quyền đã khẳng định được vai trò của mình. Với mong muốn “tất cả quyền con người cho tất cả mọi người”, Việt Nam luôn tham gia tích cực, có trách nhiệm vào các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền từ khi cơ quan này chính thức hoạt động.

Vì thế, trong lần thứ hai là thành viên của Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2023-2025), Việt Nam coi đây vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm lớn lao. Để xứng đáng với sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam không ngừng nỗ lực phát huy tốt hơn nữa vai trò, trách nhiệm trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người không chỉ phạm vi trong nước mà còn trên bình diện thế giới.

Ngay tại Khóa 52 mở đầu nhiệm kỳ Hội đồng Nhân quyền, đoàn Việt Nam đã giới thiệu sáng kiến về Kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn nhân quyền thế giới (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA). Từ đây tái khẳng định tầm quan trọng của những nguyên tắc chính về nhân quyền của hai văn kiện lịch sử UDHR và VDPA; góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc.

Trên cơ sở này, Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam đã trực tiếp triển khai soạn thảo, tham vấn, thương lượng dự thảo Nghị quyết. Đến ngày 3/4/2023, Hội đồng Nhân quyền đã thông qua Nghị quyết này với sự đồng thuận của 121 nước là minh chứng cụ thể cho nỗ lực và trách nhiệm kịp thời của Việt Nam khi tham gia các vấn đề quan tâm của cộng đồng quốc tế.

Sau thành công trên, Việt Nam tiếp tục thể hiện vai trò tiên phong trong xây dựng chuỗi nghị quyết hằng năm về bảo đảm quyền con người trong biến đổi khí hậu. Tại Khóa 53 Hội đồng Nhân quyền (tháng 6 - 7/2023), Việt Nam cùng Bangladesh và Philippines đã đồng tổ chức phiên thảo luận chuyên đề Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với việc hiện thực hóa đầy đủ quyền lương thực.

Qua đó, nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết các lỗ hổng trong bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền phụ nữ và trẻ em gái trong bối cảnh biến đổi khí hậu; khẳng định vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định và ban hành chính sách về biến đổi khí hậu; kêu gọi các quốc gia thực hiện thỏa thuận tài trợ, theo quyết định tại COP 27. Từ đó, hỗ trợ các nước đang phát triển ngăn chặn và giải quyết các tổn thất do biến đổi khí hậu gây ra.

Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam, Bangladesh và Philippines tiến hành đề xuất, soạn thảo nội dung, tham vấn xây dựng Nghị quyết 2023 về Biến đổi khí hậu về quyền con người với chủ đề “Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với sinh kế và ảnh hưởng của những tác động này đối với quyền con người”. Ngày 12/7/2023, Hội đồng Nhân quyền đã thông qua Nghị quyết này và 80 quốc gia đã tham gia đồng bảo trợ. Cũng trong kỳ họp này, Việt Nam cùng Hoa Kỳ và Argentina đồng tổ chức Tọa đàm quốc tế về chống phân biệt đối xử, bạo lực và quấy rối trên cơ sở giới tại nơi làm việc.

Mới đây, tại Khóa 55 Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã tích cực phát biểu tại nhiều phiên họp, thảo luận về bảo đảm các quyền cụ thể như quyền môi trường trong lành, bền vững; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền của người khuyết tật; quyền trẻ em… Việt Nam cũng nhấn mạnh các ưu tiên của Việt Nam khi tham gia Hội đồng Nhân quyền, trong đó có bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, bình đẳng giới, chuyển đổi số và quyền con người.

Đến nay, Việt Nam đã tích cực thực hiện nhiệm vụ của thành viên Hội đồng Nhân quyền trong công tác tham vấn, bỏ phiếu thông qua 32 dự thảo nghị quyết và 2 quyết định của Hội đồng Nhân quyền. Bên cạnh những kết quả này, Việt Nam đã nộp Báo cáo quốc gia theo cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV, trong đó đã thực hiện hoàn toàn gần 90% số khuyến nghị nhận được năm 2019. Đồng thời Việt Nam cũng thúc đẩy đối thoại và hợp tác tại Hội đồng Nhân quyền, tiếp cận với những vấn đề còn nhiều khác biệt như quan hệ giữa phát triển và nhân quyền, sức khỏe sinh sản và giáo dục giới tính,...

Những đóng góp của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền trong thời gian qua đã góp phần giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về nỗ lực của nước ta trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế với Việt Nam còn được thể hiện qua việc ngày 9/4, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) đã nhất trí bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027. Đây là cơ hội để Việt Nam sát cánh với các thành viên trong UN Women tham gia xây dựng các chiến lược nhằm xóa bỏ nạn phân biệt, kỳ thị phụ nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự công bằng giữa phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực phát triển.

Những thành tựu nêu trên đã cho thấy một Việt Nam tự tin, sẵn sàng gánh vác nhiều trọng trách quốc tế vì quyền con người. Thế nhưng vẫn có một số cá nhân, tổ chức không thiện chí cố tình phủ nhận những đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền.

Thời gian gần đây, các hoạt động chống phá có xu hướng gia tăng với mục đích là ngăn cản Việt Nam ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền 2026-2028. Nhân danh “đấu tranh” cho các quyền tự do, dân chủ, các đối tượng, tổ chức nêu trên thường xuyên lợi dụng các diễn đàn báo chí quốc tế để xuyên tạc, bôi đen tình hình nhân quyền ở Việt Nam bằng nhiều cáo buộc vô căn cứ. Điển hình là phát ngôn mới đây của đại diện của Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (CIVISUS) cho rằng Việt Nam “đã không thực thi nhiều khuyến nghị do Hội đồng Nhân quyền đưa ra trong kỳ Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) gần nhất vào năm 2019”.

Hay tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) vốn lâu nay thường xuyên thể hiện bản chất cực đoan, thiếu thiện chí với Việt Nam còn đưa ra những luận điệu vu cáo, định kiến với ý đồ xấu như: “Việt Nam là một thảm họa không thể giải quyết được với tư cách là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, tiến hành cuộc đàn áp quy mô lớn đối với các nhóm xã hội dân sự và các nhà hoạt động ở trong nước, đồng thời tích cực dung túng những hành vi vi phạm nhân quyền của các quốc gia khác được đưa ra trước Hội đồng. Khó có thể tìm ra thành viên nào tồi tệ hơn trong Hội đồng, vì vậy chiến dịch tái tranh cử của Hà Nội phải bị bác bỏ tuyệt đối”.

Từ đây cho thấy các thế lực chống phá thù địch đang cố tình phớt lờ việc Việt Nam đã nộp báo cáo UPR chu kỳ IV và thực thi đến gần 90% số khuyến nghị do các bên đưa ra. Theo đánh giá của bà Ramla Khalidi, Quyền Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam tại Hội thảo quốc tế tham vấn dự thảo Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ IV của Việt Nam diễn ra vào ngày 24/11/2023: “Việt Nam đã thể hiện vai trò tiên phong trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người”.

Đáng lên án hơn, một số tổ chức nhân quyền tự xưng như “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam”, “Người Bảo vệ Nhân quyền” và “Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam” còn xây dựng nhiều báo cáo không khách quan, sai sự thật về việc thực thi các công ước về quyền con người của Việt Nam nhằm gây sức ép lên Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc tại phiên họp kiểm điểm việc thực thi Công ước ICCPR của Nhà nước Việt Nam, hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Hầu hết cáo buộc của các cá nhân, tổ chức này không hề mới, đã bị người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và các cơ quan báo chí trong nước bác bỏ thông qua những dẫn chứng, số liệu cụ thể. Đáng tiếc là một vài cơ quan, cơ chế thực thi nhân quyền và một số quốc gia vẫn dựa vào những thông tin sai lệch để đưa ra các nhận định có tính quy kết về công tác bảo đảm và bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam mà không hề có sự tham khảo, chọn lọc, đánh giá thông tin một cách nghiêm cẩn, khách quan. Điều này không chỉ phủ nhận công sức của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền mà còn tạo ra những rào cản trong quá trình hiểu biết lẫn nhau và thiết lập hướng đi chung cho lĩnh vực này.

Dù vẫn còn một nửa nhiệm kỳ ở phía trước, với nhiều khó khăn, thách thức nhưng có thể khẳng định Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền 2023-2025 với nhiều dấu ấn cụ thể.

Theo đánh giá của Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt: “Năm 2024 là năm bản lề của nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Nhân quyền 2023-2025, với nhiều hoạt động trọng tâm như trình bày và đối thoại về Báo cáo quốc gia theo Cơ chế UPR chu kỳ IV, tiếp tục thúc đẩy các sáng kiến, ưu tiên, nhất là sáng kiến về biến đổi khí hậu và quyền con người, kết hợp với công tác vận động các nước tiếp tục ủng hộ Việt Nam lần đầu tiên tái ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026-2028”.

Với quyết tâm cao nhất cùng sức mạnh từ sự đoàn kết, trên dưới một lòng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng tại Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế nhân quyền khác của Liên hợp quốc, ASEAN. Bằng những hành động thiết thực, Việt Nam đang đi đúng hướng trên tiến trình thúc đẩy đoàn kết quốc tế và phát triển bao trùm, bền vững./.

PHAN KỶ (nhandan.vn)

Chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp tục soi sáng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

V.I.Lênin - nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản toàn thế giới đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do cho các dân tộc, vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Những di sản mà Lênin để lại cho toàn thể nhân loại tiến bộ là vô cùng to lớn trên cả phương diện lý luận và từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Ðối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng của V.I.Lênin không chỉ là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng mà vẫn đang tiếp tục chỉ dẫn cho mỗi bước đi trong chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.

Nhiều hoạt động tại thủ đô Moskva (Liên bang Nga) nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của V.I.Lenin, 21/1/2024. (Ảnh: nhandan.vn)

Hòng thực hiện âm mưu làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, một trong những mục tiêu các thế lực thù địch tập trung thực hiện chính là đòi xóa bỏ sự lãnh đạo duy nhất, trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối, mọi mặt của Ðảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam.

Ðể thực hiện mục tiêu này, các đối tượng tuyên truyền luận điệu: Ðảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng mà theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì chính trị nảy sinh trên cơ sở kinh tế, phản ánh kinh tế và chính trị do kinh tế quyết định. Bởi vậy theo họ, ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đang thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu cho nên theo quy luật kinh tế quyết định chính trị thì Việt Nam phải tiến hành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chỉ có thực hiện đa nguyên, đa đảng đại diện cho lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong xã hội thì mới thật sự bảo đảm dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ðây là sự xuyên tạc vô căn cứ và cũng không đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

Xuất phát từ lập trường duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đúng là chính trị là sự phản ánh kinh tế, kinh tế quyết định chính trị, sự biến đổi của đời sống chính trị suy cho cùng bắt nguồn từ sự biến đổi của đời sống kinh tế.

Tuy nhiên, về vấn đề này V.I.Lênin khẳng định: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"; "chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại".

Ở đây, V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng: chính trị phản ánh kinh tế và xét đến cùng do kinh tế quyết định nhưng chính trị không phải là tấm gương soi của kinh tế theo nghĩa kinh tế có gì thì chính trị phải có cái đó. Nghĩa là chính trị không phản ánh tất cả những quan hệ vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp của kinh tế mà chỉ phản ánh những quan hệ đặc trưng cốt lõi nhất của kinh tế, đó chính là quan hệ sản xuất mà trung tâm nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó, khi nhìn vào bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào thì căn cứ vào quan hệ sản xuất thống trị và quan hệ sở hữu thống trị, chi phối trong kinh tế, chúng ta có thể nhận diện rõ bản chất chế độ chính trị của quốc gia đó là như thế nào. Theo đó, một nền kinh tế do chế độ sở hữu tư nhân thống trị và chi phối (thiểu số giai cấp thống trị nắm trong tay những tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu trong xã hội) thì tất yếu không thể có một nền chính trị thật sự dân chủ dành cho mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội mà đó chỉ là nền dân chủ dành cho thiểu số giai cấp thống trị. Ngược lại chỉ khi nào chế độ công hữu giữ vai trò chủ đạo, chi phối trong nền kinh tế (mọi giai tầng cùng nhau sở hữu những tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu) thì mới có cơ sở để xây dựng một chế độ chính trị thật sự dân chủ cho tất cả mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người dân trong xã hội.

Từ đây, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã luận chứng cho việc muốn có một nền dân chủ thật sự tiến bộ dành cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội thì nhất định phải dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chừng nào chưa làm được điều này thì sẽ không làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị dù nó có tồn tại dưới hình thức nào đi chăng nữa.

Từ luận điểm của V.I.Lênin soi chiếu vào thực tiễn Việt Nam thời kỳ đổi mới có thể thấy: bước sang thời kỳ đổi mới Ðảng ta chủ trương khôi phục lại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu và coi đây là đặc trưng xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ðiều này được khẳng định ngay từ Ðại hội VI (1986) - Ðại hội đánh dấu đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của Ðảng: "coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".

Tuy nhiên, điểm cần lưu ý ở đây là các thành phần kinh tế Việt Nam không phát triển tự do mà phát triển theo định hướng chung - định hướng xã hội chủ nghĩa với sự chi phối của chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước. Chủ trương này được thể hiện nhất quán ngay từ những nhiệm kỳ Ðại hội đầu của thời kỳ đổi mới: Ðại hội VII: "thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; Ðại hội VIII: "phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Và ngay tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Ðảng ta thông qua tại Ðại hội VII năm 1991 cũng chỉ rõ một trong 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam xây dựng đó là: "Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu".

Do đó, mô hình kinh tế tổng quát mà Việt Nam lựa chọn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc trưng cơ bản: gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển, bảo đảm kết quả tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho lợi ích của toàn thể nhân dân vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ðiều này được Ðảng khẳng định rõ trong Văn kiện Ðại hội XIII tổng kết sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước".

Như vậy, với một nền kinh tế chung phát triển thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự chi phối của chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước thì việc có một Ðảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, cách mạng và xã hội - Ðảng Cộng sản Việt Nam - "Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" - tất yếu vẫn đi theo quy luật kinh tế quyết định bản chất của chế độ chính trị như các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và cũng hoàn toàn đúng với quan điểm của V.I.Lênin.

Ðồng thời cần phải nhận thức sâu sắc một sự thật rằng, đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ và nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền không đồng nhất với phản dân chủ như những gì mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao, tuyên truyền. Dân chủ hay không, dân chủ đến đâu và nền dân chủ đó dành cho ai, cho một giai cấp hay toàn thể xã hội xét đến cùng vẫn phụ thuộc vào chính bản chất của chế độ kinh tế nhất là chế độ sở hữu như V.I.Lênin đã chỉ rõ.

Từ thực tế có thể thấy, tại nhiều nước tư bản hiện nay đang thực hiện chế độ đa đảng, song ở các nước này, quan hệ sản xuất thống trị vẫn là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ sở hữu chi phối vẫn là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nghĩa là thiểu số giai cấp tư sản thống trị vẫn nắm trong tay những tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu trong xã hội. Do đó, tương ứng với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì nền chính trị ở các nước tư bản không thể trở thành nền chính trị dân chủ dành cho các giai tầng trong xã hội mà đó chỉ là nền dân chủ tư sản dành cho giai cấp cầm quyền trong xã hội, và tất yếu dù có nhiều đảng phái chính trị cùng tồn tại nhưng đảng cầm quyền, nắm quyền quyết định vẫn là đảng của giai cấp tư sản. Và tất yếu, trên cơ sở của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhà nước tư sản cũng không có cơ sở trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như nhiều học giả tư sản hiện nay vẫn khẳng định mà suy cho cùng nhà nước đó cũng chỉ chủ yếu đại diện cho quyền, lợi ích của giai cấp tư sản.

Ðối với Việt Nam, mặc dù chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu nhưng trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chế độ công hữu giữ vai trò chi phối, do đó, tương ứng với chế độ sở hữu như vậy, Việt Nam mới có cơ sở để xây dựng nền dân chủ thật sự tiến bộ cho tất cả mọi người - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có cơ sở để xây dựng nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng của V.I.Lênin nói riêng vẫn đang tiếp tục đồng hành cùng toàn Ðảng và toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiếp tục soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Ðảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa./.

TS. HOÀNG THU TRANG (nhandan.vn)

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch

(TG) - Bằng những luận cứ khoa học sắc bén và tinh thần không khoan nhượng, V.I.Lênin đã đấu tranh chống lại các loại cơ hội, thù địch để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, đưa phong trào cộng sản và công nhân phát triển trong thực tiễn. Lênin đã để lại cho giai cấp công nhân và những người cộng sản thế giới hệ thống tư tưởng và phong cách, phương pháp luận chiến phong phú, mẫu mực.

TƯ TƯỞNG LÊNIN VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LOẠI CƠ HỘI, THÙ ĐỊCH

Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình tồn tại, học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác - Lênin, đã luôn bị các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội ra sức chống phá quyết liệt. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các chính đảng cũng như phong trào công nhân trên thế giới, đến việc hiện thực hóa khát vọng giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người của giới cần lao.

Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, Quốc tế II đứng trước những mối nguy lớn khi chủ nghĩa cơ hội hoành hành, đe dọa vai trò lãnh đạo, tập hợp và thống nhất các đảng. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc bấy giờ, đã có những người rời bỏ hàng ngũ cộng sản của mình để nhân nhượng, thỏa hiệp và thậm chí phản bội lại sứ mệnh của giai cấp công nhân. Những người này đã “khoác áo Mác để chống Mác”, mặc dù bên ngoài không công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng thực chất lại đang quay lưng với những nguyên lý cách mạng và linh hồn sống của chủ nghĩa Mác.

Khi chủ nghĩa cơ hội đã được hình thành và phát triển với những tư tưởng, quan điểm có tính hệ thống, thậm chí trở thành một học thuyết chính trị - xã hội thì ảnh hưởng rất tiêu cực đến phong trào công nhân, làm lung lay niềm tin, “làm hư hỏng phong trào công nhân”(1), “biến nhiệm vụ giành chính quyền từ quan trọng thành không quan trọng; biến hình thức đấu tranh nghị trường là thứ yếu sang hình thức đấu tranh chủ yếu; biến đấu tranh kinh tế từ thứ yếu thành chủ yếu dẫn tới quá coi trọng và đề cao đấu tranh kinh tế, hạ thấp vai trò đấu tranh chính trị”(2). Họ dễ dàng thỏa hiệp với giai cấp tư sản, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận cách mạng vô sản và cố gắng đưa phong trào công nhân nằm trong “giới hạn có thể chấp nhận được” đối với giai cấp tư sản, khiến cho phong trào công nhân chỉ như “giậm chân tại chỗ”. Điều này đã tạo nên tâm lý hoài nghi về thắng lợi của phong trào công nhân cũng như “làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng Cộng sản, kéo lùi phong trào công nhân ở các nước”(3).

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp tổ chức họp báo phát động Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ hai, năm 2022 _Ảnh: TTXVN

Đến những năm 1914 - 1915, chủ nghĩa cơ hội biến thành chủ nghĩa cơ hội sôvanh phản động khi công khai ủng hộ giai cấp tư sản gây chiến tranh đế quốc để phân chia lại thị trường và thuộc địa, tiếp tay cho việc đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Những tác hại mà chủ nghĩa cơ hội cũng như các trào lưu tư tưởng cực đoan đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là rất lớn.

V.I.Lênin đã kiên quyết phê phán các luận điểm của chủ nghĩa cơ hội với các đại biểu như E. Bécxtanh, C. Cauxky, chủ nghĩa dân túy với những đại biểu tiêu biểu như Mikhailốpxki, Crivencô, Giacốp; quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái kinh tế với các gương mặt như Cuxcôva, A. Máctưnốp, X.N. Prôcôpôvích; quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái Mensêvích do Máctốp đứng đầu, hay đấu tranh chống bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản đem đến nguy cơ làm chệch hướng phong trào giải phóng của giai cấp vô sản.

Với thái độ kiên quyết, dứt khoát, triệt để, V.I.Lênin đã không chỉ công khai đấu tranh trên lĩnh vực lý luận mà còn thẳng thừng loại bỏ những đối tượng này ra khỏi hàng ngũ của Đảng và xem đó như việc “tẩy rửa chất mủ” trong chính “cơ thể” của phong trào cộng sản, mặc dù có chịu đau đớn nhưng “Điều rất cần thiết hiện nay, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân”(4). Đồng thời, V.I.Lênin còn luôn chú trọng việc giữ vững tính đảng, không nhân nhượng về mặt lý luận trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội và các loại hình thù địch. Muốn vậy, lý luận phải thật sự sắc bén, thật sự am tường và không còn cách nào khác là phải nâng cao trình độ, tăng cường hệ tư tưởng XHCN cho giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Người cũng đã chỉ ra cần xác định những nội dung, phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp, có hiệu quả.

Trải qua cuộc đấu tranh gay gắt, phức tạp, với lý luận sắc bén, V.I.Lênin đã trực diện, đập tan các luận điệu của chủ nghĩa cơ hội, góp phần bảo vệ tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác. Đồng có vai trò bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác bằng việc tổng kết thực tiễn cách mạng của nước Nga xôviết, góp phần to lớn vào sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

THỰC TIỄN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG LÊNIN TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC LOẠI CƠ HỘI, THÙ ĐỊCH Ở NƯỚC TA

Mặc dù ở Việt Nam chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách là một lực lượng hay một phong trào có khả năng ảnh hưởng đến cách mạng, nhưng vẫn còn tồn tại những tư tưởng hay những biểu hiện hữu khuynh và tả khuynh dưới những mức độ khác nhau. Ngoài ra, việc các thế lực thù địch phản động câu kết gia tăng sự chống phá đã khiến chúng ta phải thường xuyên, kiên quyết đấu tranh phản bác, ngăn chặn các loại cơ hội, các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, từ sau khi CNXH hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhiều luận điệu xảo trá đã được tung hô với những thủ đoạn, hình thức khác nhau nhằm tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Trước tình thế đó, việc đấu tranh trực diện, không khoan nhượng, thật sự kiên quyết được đặt ra cấp bách nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ và những thành quả của công cuộc đổi mới.

Một dấu mốc quan trọng trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái thù địch là ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đưa việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được thực hiện một cách bài bản, đồng bộ hơn với nhiều kết quả khả quan. Từ đó, làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn hòng việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”; làm thất bại các hoạt động lợi dụng đổi mới để gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng.

Công tác tổng kết, nghiên cứu lý luận được chú trọng, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN; công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều đổi mới, sáng tạo về nội dung, hình thức, phát huy tốt vai trò định hướng dư luận, nhất là trên mạng xã hội. Qua đó, kịp thời tuyên truyền, khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thông tin tích cực, thuyết phục, có sức lan tỏa, giáo dục, đẩy lùi các thông tin xấu, độc; góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch vẫn diễn ra với tính chất ngày càng tinh vi, thâm độc hơn; hệ thống internet, mạng xã hội phát triển đã trở thành công cụ hữu hiệu để chúng lợi dụng triệt để xuyên tạc, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gây nên sự hoài nghi trong xã hội...

Mặt khác, thực tiễn đổi mới, hội nhập đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu, giải đáp thấu đáo về lý luận. Công tác “đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”(5); việc lôi cuốn sự tham gia đông đảo của cán bộ, nhân dân chưa nhiều; đội ngũ làm công tác đấu tranh còn chưa đủ về số lượng và mạnh về chất lượng; tính chiến đấu, tính khoa học, tính sắc bén trong lập luận chưa cao nên tính thuyết phục còn hạn chế; công tác quản lý thông tin trên mạng chưa theo kịp tình hình... Đó là những khoảng trống cần sự bù đắp kịp thời để phát huy tốt hơn công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay.

TIẾP TỤC VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG LÊNIN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Trong quá trình hoạt động cách mạng, V.I. Lê-nin luôn kiên quyết đấu tranh chống những trào lưu tư tưởng phi mác-xít chống phá phong trào cách mạng _Tranh: Tư liệu

Thứ nhất, cần tiếp tục nhận diện và đấu tranh trực diện, kiên quyết, không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.

Nghị quyết 37-NQ/TW ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” xác định: Công tác nghiên cứu lý luận có nhiệm vụ “kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc”. Trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”(6).

Thứ hai, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; phân biệt rõ quan điểm khác, quan điểm lệch lạc với quan điểm sai trái, thù địch…

Trước đây, sự hình thành chủ nghĩa cơ hội tả khuynh một phần cũng chính từ sự non kém về lý luận và thiếu bản lĩnh về chính trị, khiến cho một số đảng viên là lãnh đạo rơi vào chủ quan, duy ý chí, không nắm vững quy luật khách quan... Do vậy, trang bị và nắm vững lý luận chính trị là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay để không bị hoang mang, dao động. Việc không ngừng bổ sung, phát triển lý luận cần gắn liền với việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bởi lẽ sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì “vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt”(7) từ các nhà tư tưởng. Và hơn ai hết, chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa Mác - Lênin mà các nhà kinh điển đã xây dựng “chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(8). Vậy nên cần “nâng cao năng lực khoa học phục vụ phát triển công tác lý luận, đảm bảo cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9).

Với những quan điểm lệch lạc do chưa nhận thức đầy đủ thì cần có biện pháp thuyết phục, trao đổi, chỉ ra những lỗ hổng, thiếu tính khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn trong lập luận của họ, tránh áp đặt ý muốn chủ quan và cũng không nên “đao to búa lớn”. Với những những quan điểm sai trái do cố tình “không hiểu” hay là “đánh tráo khái niệm” thì cần kiên quyết bác bỏ, lên án và đấu tranh không khoan nhượng bằng cơ sở, căn cứ vững chắc về lý luận, thực tiễn và chính trị, pháp lý. Đặc biệt, trong quần chúng nhân dân hay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đôi khi cũng có những quan điểm khác, nhận thức khác với quan điểm của Đảng và Nhà nước - điều này cũng không phải khó hiểu bởi vì nhận thức là một quá trình, cần “đối thoại thẳng thắn... trên tinh thần khoa học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau”(10).

Thứ ba, phòng chống suy thoái về chính trị tư tưởng, nghiêm khắc xử lý với những sai phạm trong nội bộ.

Nếu như trước đây, nguồn gốc của sự suy thoái, cơ hội diễn ra trong đội ngũ những người cộng sản được V.I. Lênin chỉ ra là “các lãnh tụ và tầng lớp trên của giai cấp công nhân bị hủ hóa, bị mua chuộc, chạy theo giai cấp tư sản”(11) và sự “thỏa mãn với tình thế nhất thời, ánh sáng chói lọi” của CNTB thì hiện nay, dù cách diễn đạt có khác nhưng chung quy vẫn như 27 biểu hiện mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra. Bởi vậy, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng”(12) cùng với đó là những “hạn chế, khuyết điểm mà Đảng ta đã tự đánh giá” nhằm gây sự hoài nghi, bất bình trong nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Từ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có thể xác định những phần tử cơ hội thuộc các “nhóm” sau: Thứ nhất, là những kẻ ra mặt chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, dễ nhận biết và phát hiện; Thứ hai, là những kẻ không ra mặt chống đối nhưng lại có ý đồ rất xa, rất dài, mưu đồ “chui sâu, leo cao” để thực hiện tham vọng; Thứ ba, là những cán bộ, đảng viên thiếu hiểu biết về lý luận chính trị, phai nhạt lý tưởng, dễ ngả nghiêng, dao động, thiếu niềm tin. Theo đó, cần nhận diện đúng các “cấp độ” của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ đảng viên để có biện pháp thuyết phục, đấu tranh phù hợp, hiệu quả, tránh “vơ đũa cả nắm”; chú trọng kết hợp “xây” và “chống”.

Trong đấu tranh, có những trường hợp và thời điểm phải kiên quyết thực hiện giải pháp như V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh là đuổi bọn thoái hóa, biến chất, cơ hội, thù địch, tham ô, không trung thực, xu nịnh... ra khỏi hàng ngũ của Đảng để làm cho uy tín của Đảng được tăng lên, chấp nhận “thà ít mà tốt”. Dù đau xót nhưng phải kiên quyết “cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cây”, “xử một số người để cứu muôn người”, dù người đó là ai, giữ chức vụ gì, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ đạo.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh việc “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hàng ngày” như cách nói của Lênin, “đưa chính trị vào giữa dân gian” như cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong tình hình mới, mọi đường lối, chính sách của chúng ta đều nhằm thực hiện 8 phương hướng để hiện thực hóa 8 đặc trưng mà mục tiêu cao nhất và toàn diện là Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn và những nhu cầu chính đáng, hợp pháp, thiết thực của nhân dân. Giá trị đích thực của CNXH ở Việt Nam, mục tiêu tối thượng mà Đảng và Nhà nước ta hướng đến là đời sống của nhân dân, để nhân dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển và đây cũng là bản chất ưu việt của chế độ XHCN.

Được thụ hưởng, được thỏa mãn lợi ích hợp pháp, chính đáng sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy người dân cống hiến, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Đây là cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải kiên quyết phê phán, đấu tranh.

Thứ năm, thường xuyên củng cố, xây dựng đội ngũ chuyên gia sâu sắc về lý luận, am tường thực tiễn; không ngừng nâng cao nhận thức của quần chúng.

Cần có cơ chế để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới là “lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, bảo đảm hài hòa giữa trước mắt với lâu dài, giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng”. Xây dựng “đội ngũ cán bộ đầu đàn và các lớp cán bộ kế tiếp, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” và “có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của các nhà khoa học” theo tinh thần Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ.

Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân, để nhân dân biết rõ các hành vi, hình thức chống phá của các thế lực thù địch; có bản lĩnh vững vàng để không bị lôi kéo vào những hoạt động chống phá, đồng thời có trách nhiệm hơn khi tham gia sử dụng mạng xã hội. Với sức đề kháng của hàng triệu quần chúng thì mọi sự lừa mị, xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch đều trở nên vô nghĩa, lạc lõng.

*           *

*

Trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội và những trào lưu phản cách mạng, sai trái là một hoạt động cần thiết và vô cùng quan trọng nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự tồn tại của chế độ XHCN. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, V.I.Lênin đã không chỉ tiếp nối sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen mà còn liên tục đấu tranh với những phần tử, trào lưu cơ hội, dân túy, thù địch để bảo vệ tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Tư tưởng và những quan điểm đó vẫn luôn chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong bối cảnh hiện nay./.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, V.I.Lênin đã không chỉ tiếp nối sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen mà còn liên tục đấu tranh với những phần tử, trào lưu cơ hội, dân túy, thù địch để bảo vệ tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Tư tưởng và những quan điểm đó vẫn luôn chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong bối cảnh hiện nay

TS. NGUYỄN ANH TUẤN

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Giảng viên PHẠM THỊ NHƯ QUỲNH

Trường Chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị

_________________________

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.30, tr.215.

(2) (3) Phạm Văn Phong: Cuộc đấu tranh của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê nin chống chủ nghĩa cơ hội và ý nghĩa đối với xây dựng Đảng hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019, tr.29, 14.

(4) V.I.Lênin: Toàn tập, sđd, t.26, tr.327.

(5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.91, 183.

(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.18.

(8) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.4, tr.232.

(9) (10) Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”.

(11) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.218-219.

(12) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...