(TG) - Xuyên tạc sự thật việc thực thi và bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam về bản chất là cùng chung chiêu trò thâm độc để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, chống phá Đảng và chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập...
Sau hơn 77 năm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc
lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, có thể khẳng định
rằng nhân dân Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục được hưởng thụ ngày càng đầy đủ
quyền con người theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Vì thế, dù các
thế lực thù địch, các đối tượng phản động, cơ hội cố tình xuyên tạc, bóp méo,
bôi đen việc thực thi nhân quyền/quyền con người, quyền tự do, dân chủ ở Việt
Nam; phao tin và cho rằng Việt Nam không xứng đáng khi đã trúng cử trở thành
thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, thì sự
thật việc đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam vẫn và luôn là không thể phủ nhận.
VIỆT NAM CHÚ TRỌNG THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI
Việt Nam nhận thức sâu sắc quyền con người là giá trị chung của
các quốc gia, dân tộc và giá trị đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được ghi
rõ trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, vì thế tôn trọng,
thực thi, bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt
Nam. Tuy Ngày Nhân quyền thế giới bắt đầu có từ 10/12/1948, nhưng quyền con
người, quyền công dân của người dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được hiến
định tại Hiến pháp 1946 và tiếp tục ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, rõ ràng
hơn, đầy đủ hơn tại các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và nhất là tại Hiến pháp
2013.
Việt Nam cũng đã thông qua nhiều luật quan trọng như: Bộ luật Lao
động; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; Luật Hoà giải, đối thoại
tại Toà án; Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Luật Cư
trú; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính...
liên quan đến quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các Công ước quốc
tế, nhất là Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Gần nhất, năm 2021, Việt
Nam tiếp tục thông qua và sửa đổi nhiều bộ luật quan trọng như Luật Phòng,
chống ma túy sửa đổi; xem xét thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng hình sự. Thực tế cho thấy, việc lập Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh qua các năm luôn đảm bảo nguyên tắc ưu tiên đưa vào Chương trình các
dự án luật nhằm triển khai thi hành các quy định của Hiến pháp về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cùng với đó, Việt Nam là một
trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế
về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác ban hành. Tính
đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp
quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản liên quan đến các lĩnh vực
thương lượng tập thể, phòng chống phân biệt đối xử, lao động trẻ em và lao động
cưỡng bức…
Những thành tựu Việt Nam đạt được trong xây dựng hệ thống pháp
luật, triển khai thực thi quyền con người; tham gia ký các công ước quốc tế,
điều ước quốc tế về quyền con người và cam kết thực hiện, coi đó là trách nhiệm
chính trị, pháp lý của Nhà nước; hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu
Phát triển Bền vững (SDG)... nhất là đóng góp của Việt Nam tại Hội đồng Nhân
quyền (với chu kỳ III, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm 82,6% các
khuyến nghị đã chấp thuận) và việc khởi động tiến trình Rà soát định kỳ phổ
quát (UPR) chu kỳ IV là thêm một minh chứng cho thấy không phải Việt Nam “sợ
nhân quyền”, “không thực thi nhân quyền” mà là luôn chú trọng đảm bảo nhân
quyền, quyền công dân cho người dân.
Hằng năm, nhân dịp Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Chủ tịch nước đều ký Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn cho những
phạm nhân có quá trình cải tạo tốt. Đây không chỉ là một chủ trương, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà
còn thể hiện sự nghiêm minh trong xét xử người phạm tội đi liền với sự khoan
hồng, nhân đạo đối với những phạm nhân đã cải tạo tốt để trở lại làm người có
ích cho xã hội. Bên cạnh đó, việc xem xét đặc xá cho những trường hợp có quốc
tịch nước ngoài được thực hiện công bằng, minh bạch không chỉ góp phần làm cho
cộng đồng quốc tế nhận thức rõ hơn về chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước Việt Nam mà còn thúc đẩy, tăng cường mối quan hệ song phương
với các nước có công dân được đặc xá.
Ở Việt Nam, quyền dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền
tiếp cận thông tin của người dân ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Trong đó, tự
do báo chí được thể hiện, với việc cả nước có khoảng 800 cơ quan báo chí (hơn 100
báo có hoạt động báo điện tử; hơn 600 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc
lập; 67 đài phát thanh, truyền hình với 182 kênh) và 18.000 nhà báo được cấp
thẻ, khoảng 5.000 phóng viên; 60 nhà xuất bản và 20 cơ quan báo chí nước ngoài
có phóng viên thường trú tại Việt Nam… Nói quyền tự do Internet, sử dụng mạng
xã hội thì Việt Nam đang đứng top đầu thế giới như We Are Social &
Hootsuite đã thống kê về chỉ số tiếp cận internet: “Việt Nam có tới 150 triệu
kết nối mobile; khoảng 70 triệu người dùng internet; 58 triệu tài khoản sử dụng
Facebook. Hạ tầng 3G/4G đã phủ sóng 99,8% dân cư và internet cáp quang đã tới
98% số phường, xã”(1).
Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo và được
khẳng định tại các bản Hiến pháp. Việc phát triển hệ thống báo chí, truyền
thông không chỉ góp phần nâng cao dân trí và mức sống văn hóa của xã hội mà còn
góp phần lan tỏa những thông điệp đúng đắn, sâu sắc, toàn diện trong cộng đồng
để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Việt Nam hiện có 42 tổ chức thuộc 15
tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 95% dân số có tín ngưỡng, tôn giáo;
trong đó các tôn giáo sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và được
Nhà nước tạo điều kiện cho in ấn, phát hành kinh sách… Đặc biệt, việc thông qua
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và hai Nghị định thực thi Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo đã tạo khuôn khổ pháp lý để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo cho người dân...
Việt Nam cũng luôn tham gia tích cực, chủ động và trách nhiệm tại
các diễn đàn đa phương quốc tế về quyền con người như: Phiên họp cấp cao và các
Khóa họp thường kỳ trong năm 2022 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
(Geneva, Thụy Sỹ); đồng chủ trì thúc đẩy thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết
về “Biến đổi khí hậu và quyền lương thực” với số nước đồng bảo trợ cao tại Khoá
50 Hội đồng Nhân quyền (tháng 7/2022); tham gia các cuộc họp của Uỷ ban 3 Đại
hội đồng Khoá 74 (tháng 10 -11/2022)… và triển khai xây dựng Báo cáo thực hiện
Công ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR); Công ước Liên
hợp quốc về chống tra tấn (CAT); Báo cáo lần thứ 9 thực hiện Công ước về Xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); nộp và chuẩn bị bảo vệ Báo
cáo Công ước về chống phân biệt đối xử (CERD); tổ chức Hội thảo quốc tế về bảo
đảm quyền các nhóm dễ tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Hội thảo quốc
tế nhân dịp kỷ niệm Ngày nhân quyền quốc tế và khởi động tiến trình UPR chu kỳ
IV,v.v.. Việt Nam cũng đã thiết lập cơ chế bảo hộ cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài theo Hiến pháp và các điều ước quốc tế về hợp tác lao động thông qua
cơ quan đại sứ quán, lãnh sứ quán, hội người Việt Nam ở các quốc gia sở tại;
phát huy thế mạnh của cộng đồng người Việt Nam hướng về xây dựng quê hương, đất
nước gắn liền với việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại về
chủ trương, đường lối, về thành tựu dân chủ, nhân quyền của Việt Nam…
Thực tế, Việt Nam không chỉ ủng hộ những tư tưởng tiến bộ về quyền
con người được Liên hợp quốc khẳng định trong Tuyên ngôn và các văn kiện quan
trọng khác, mà còn nỗ lực xây dựng, triển khai các chính sách để bảo vệ, thúc
đẩy quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và sự quyết tâm,
thực thi đó đã đạt được các kết quả nổi bật, được cộng đồng quốc tế đánh giá
cao. Việc thực thi quyền con người ở Việt Nam đúng như nhận định của ông Jean -
Pierre Archambault, nguyên Tổng thư ký Hội Hữu nghị Pháp - Việt khi cho rằng:
“Bảo đảm tốt quyền con người là một trong những thành tựu của công cuộc Đổi mới
ở Việt Nam, những kết quả đạt được trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người của
Việt Nam là không thể phủ nhận”.
NHÂN QUYỀN NGÀY CÀNG ĐƯỢC BẢO ĐẢM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
Ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã được triển khai từ sau khi
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời: tổ chức Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội
khóa I ngày 6/1/1946 theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết
và bỏ phiếu kín để Quốc hội trao cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ
chính thức, thông qua Hiến pháp 1946… Sau đó, việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản theo tư tưởng của Người được triển khai, vận dụng sáng tạo
phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam trên tinh thần: Dựa vào dân, lấy dân làm
gốc; nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực Nhà nước và tất cả vì lợi
ích của nhân dân. Trong Nhà nước đó, các cơ quan trong tổ chức bộ máy Nhà nước
và cả hệ thống chính trị đều vì nhân dân phục vụ, thực hành theo nguyên tắc
“các cơ quan của Chính phủ, từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(2) và “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
lên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(3) như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định.
Những nội dung nêu trên đều được khẳng định tại Văn kiện các kỳ
Đại hội của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
mà điểm nhấn chính là: Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, và
chế độ “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ… con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”(4). Điều này cũng đúng như
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Chúng ta xây dựng “một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” và hệ thống
chính trị đó “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi
ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người” trong
tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực tế, việc “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”(5) và “thực hành và phát huy
rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin
của nhân dân; tăng cường tạo đồng thuận xã hội”(6) tiếp tục là một nội dung
quan trọng được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng. Bởi rằng, ở Việt Nam, dân
chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam (nền dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích cho đại đa
số) khác với các nền dân chủ tư sản (nền dân chủ cho thiểu số, phục vụ lợi ích
cho thiểu số); trong đó, nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân được quy đinh
trong Hiến pháp. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ, pháp luật, kỷ
cương xã hội không loại trừ, mà thống nhất biện chứng, là tiền đề phát triển
của nhau nhằm phát huy mọi khả năng của con người trong vai trò làm chủ, trong
việc thụ hưởng giá trị của tự do, dân chủ, được sống, được hạnh phúc… trên tinh
thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Trong chế độ xã hội đó, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất nước trên hành trình đổi mới và hội
nhập quốc tế, hệ thống pháp luật về quyền con người ngày càng được bổ sung,
hoàn thiện. Theo đó, quyền con người, quyền công dân được thực thi khi nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ
(quyền bầu cử, bãi nhiệm; quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước của
công dân; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền tham gia
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền giám sát
đối với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức; quyền làm việc trong
các cơ quan nhà nước…) theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Có thể nói,
với 36 điều trong tổng số 120 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân được quy định tại Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã không
chỉ khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người, quyền công dân đã được
quy định trong các bản Hiến pháp trước đó, mà còn thể chế hóa/luật hóa quan
điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, với chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia.
Thực tế cho thấy rằng, ở bất cứ quốc gia nào, thể chế chính trị
nào mà đời sống vật chất, tinh thần người dân ngày càng được nâng cao và quyền
con người, quyền công dân ngày càng được bảo đảm thì nơi đó là hạnh phúc. Cho
nên, việc giới dân chủ hải ngoại hay nhóm những người mượn danh dân chủ, đấu
tranh cho dân chủ xuyên tạc tình hình thực thi và đảm bảo nhân quyền ở Việt
Nam; mượn các sự kiện “tù nhân lương tâm như Phạm Chí Dũng, Phạm Thị Đoan
Trang, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương, Lê Dũng Vova, Bùi Tuấn Lâm…”
để làm rùm beng trên các trang Việt Tân, Quyenduocbiet.com, TiengDan.com… và
mạng xã hội chắc chắn đó không phải là “những người đang đấu tranh cho tương
lai tốt đẹp của đất nước” như các thế lực thù địch ảo tưởng tự nhận. Thủ đoạn,
một mặt, tô vẽ cho các “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”,
“tù nhân lương tâm”, “công dân yêu nước” hay trao các loại “giải thưởng nhân
quyền”…; mặt khác xuyên tạc sự thật việc thực thi và bảo đảm nhân quyền ở Việt
Nam về bản chất là cùng chung chiêu trò thâm độc để thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình” ở Việt Nam, chống phá Đảng và chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập và đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Cho nên, các luận điệu xuyên tạc sự thật mà các thế lực thù địch
hay nhóm những người giả danh dân chủ, nhân quyền, đấu tranh cho dân chủ, nhân
quyền “vinh danh những cá nhân đã hoạt động tích cực đấu tranh cho nhân quyền
của người dân Việt Nam” nhằm mục đích khuyến khích, ủng hộ và đấu tranh cho dân
chủ, nhân quyền ở Việt Nam như việc trao “giải thưởng nhân quyền năm 2022” cho
Nguyễn Tường Thụy… chỉ là sự cổ xúy cho những người đã “làm, tàng trữ, phát tán
hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm” nhằm chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117, Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Các hoạt động đó không phải là “sự quy tụ của những người có nhiệt
huyết, trách nhiệm, hoạt động vì tình yêu đất nước và thương dân” và “bị chụp
mũ cho cái tên phản động”, mà đó đích thị là các hoạt động lấy cớ vu cáo Việt
Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, nhằm gây sức ép và hạ uy tín của Việt Nam để
tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; chống phá Đảng Cộng sản
Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng. Cùng với đó,
những luận điệu “buôn” dân chủ, “buôn” nhân quyền, cổ xúy cho những người đã,
đang cam tâm chống phá Đảng và chế độ; sự tuyên truyền xuyên tạc làm rối loạn
tình hình chính trị ở Việt Nam để “tụng niệm” các giá trị dân chủ tư sản phương
Tây, tuyệt đối hóa tính phổ cập của quyền con người nhằm chụp mũ “Việt Nam đã
vi phạm quyền cơ bản của con người”, vi phạm tự do, dân chủ… cũng chính là một
trong những thủ đoạn nằm trong chiến dịch phá hoại tư tưởng, hạ thấp uy tín của
Việt Nam khi Việt Nam vừa được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2023-2025 tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77, ngày
11/10/2022.
Trên thực tế Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, truyền thông, báo chí… đều vào cuộc,
đều không ngừng nỗ lực để mỗi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất và
“tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”(7). Cho nên, cần
phải nhận diện đúng và tiếp tục khẳng định rằng: Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản nhân quyền/quyền con người, quyền công dân đã được thực thi,
được bảo đảm bằng Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Việc cần phải bác bỏ mọi
luận điệu bôi đen, bịa đặt, xuyên tạc, thâm chí vu khống về tình hình thực thi
nhân quyền ở Việt Nam của các thế lực thù địch là quan trọng và cần thiết!./.
(1) Dẫn theo Nguyễn Ngọc Hồi: Sự tin tưởng của quốc tế đã
bác bỏ mọi hành động phá hoại, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam,
tcqptd.vn, ngày 2/11/2022.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, H, 2011, t.4, tr.65.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.70.
(5) (6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I,
tr.118, 118, 175.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét