Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

Lao động có vai trò rất quan trọng trong cải tạo phạm nhân

Sau khi Luật Thi hành án hình sự năm 2019 được Quốc hội thông qua, Bộ Công an đã rút, điều chuyển phạm nhân về các trại giam để tổ chức quản lý giam giữ và bố trí lao động, đồng thời thực hiện thanh lý các hợp đồng đối với các đơn vị, doanh nghiệp hợp tác. Việc rút phạm nhân, xoá bỏ các điểm lao động, dạy nghề hợp tác ngoài trại giam từ năm 2019 đến nay đã tác động không nhỏ đến khả năng tổ chức lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân tại các trại giam.

Trong khi đó, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, số người bị kết án phạt tù tăng tạo áp lực lớn đối với công tác cải tạo, giam giữ. Hầu hết các trại giam lại đóng quân trên địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, nhất là các trại giam khu vực phía Bắc và miền Trung có diện tích nhỏ, phân tán, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, rất khó khăn cho việc tổ chức lao động dạy nghề cho phạm nhân. Chính vì vậy, yêu cầu phải tìm việc làm, tổ chức dạy nghề phù hợp cho phạm nhân là yêu cầu bức thiết đối với công tác giáo dục, cải tạo để họ làm lại cuộc đời.

Vi phạm gia tăng vì không có lao động

Là những người gắn bó với công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân, hơn ai hết, các cán bộ trong lực lượng Cảnh sát quản lý trại giam hiểu rõ giá trị của lao động đối với giáo dục, cải tạo con người. “Lao động không chỉ giúp các phạm nhân hiểu được giá trị của cuộc sống, phấn đấu, cải tạo mà còn giúp họ hướng thiện, vượt qua lỗi lầm để làm lại cuộc đời” – Thiếu tướng Trần Văn Thiện, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc, Trường Giáo dưỡng (QLTG, CSGDBB, TGD), Bộ Công an cho biết.

Cũng chính vì vậy, trong những năm qua, chính sách nhân đạo là cốt lõi nhất của công tác giáo dục, cải tạo người lầm lỗi, giáo dục, giúp họ chuyển biến nhận thức, xác định rõ sai phạm, tội lỗi để phấn đấu, cải tạo tiến bộ. Làm được điều đó, ngoài giáo dục chính trị, văn hoá thì giáo dục dạy nghề để tạo công ăn, việc làm cho họ khi trở về cộng đồng có việc làm ổn định, tự lo cho bản thân, gia đình, phòng ngừa tái phạm là công tác rất quan trọng và thiết yếu.

Phạm nhân lao động tại khu liên kết giữa Trại giam Hoàng Tiến với Công ty Gốm Mỹ. Ảnh chụp năm 2019

“Các cụ dạy rằng “nhàn cư vi bất thiện”, điều đó rất đúng, đặc biệt đúng đối với công tác quản lý trại giam vì nếu không có lao động thì các phạm nhân sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề phức tạp. “Nghề” quản lý phạm nhân của chúng tôi sợ nhất là những ngày nghỉ vì phạm nhân rảnh rỗi, không lao động, học tập, ăn ở tập trung sẽ rất dễ xảy ra va chạm, xích mích, vi phạm kỷ luật. Nhiều khi chỉ vì tranh nhau đánh răng trước hoặc đợi nhau đi vệ sinh cũng có thể mâu thuẫn, thậm chí đánh, cãi nhau, ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục” – Thiếu tướng Trần Văn Thiện cho biết.

Được biết, hiện nay, theo quy định thì phòng giam phải đạt tiêu chuẩn 2m2/ phạm nhân; mỗi buồng giam 50m2 hoặc 100 m2. Như vậy, mỗi buồng giam có 25 phạm nhân (bằng 1 đội phạm nhân) hoặc 50 phạm nhân (bằng 2 đội phạm nhân). Với số người ở tập trung đông như vậy, nhu cầu sử dụng nước, vệ sinh cá nhân rất lớn, đặc biệt là mùa hè nóng bức thì nhu cầu này tăng lên gấp bội. Chính vì vậy, nếu phạm nhân không có việc làm, ăn ở tập trung sẽ nảy sinh nhiều phức tạp. Thực tế cho thấy, trong thời gian cả nước thực hiện giãn cách để phòng, chống COVID-19, các phạm nhân không có việc làm thì vi phạm nội quy tăng lên rõ rệt.

“Không đi làm, các phạm nhân nghĩ ra đủ các trò để “giết” thời gian, thậm chí cả cá cược, cờ bạc. Ví dụ, họ cá cược nhau xem cán bộ vào phòng thì bước chân phải hay chân trái trước; cán bộ sẽ gọi đội nào trước… Những việc này tưởng rất vu vơ, vô thưởng vô phạt nhưng lại là nguồn cơn của không ít mâu thuẫn, tiềm ẩn phức tạp, vi phạm quy định trại giam, mất ANTT” – Thiếu tướng Trần Văn Thiện cho biết.

Đại tá Phạm Văn Nghị, Giám thị Trại giam Thanh Phong chia sẻ, trong đợt dịch vừa qua, do giãn cách xã hội, phương tiện của các doanh nghiệp không đi lại được, hàng hoá không tiêu thụ được dẫn đến không có việc làm, có thời điểm các phạm nhân phải nghỉ cả tháng trời. Để giảm bớt áp lực giam giữ, đảm bảo sức khoẻ cho phạm nhân, trại giam phải tổ chức cho họ đi nhổ cỏ, quét dọn khuôn viên trại giam, thậm chí tạo điều kiện để các phạm nhân đi bộ trong khu vực trại, tránh việc giam giữ lâu gây phức tạp.

Nhiều khó khăn trong tổ chức dạy nghề, tìm kiếm việc làm cho phạm nhân

Mặc dù đã nỗ lực tìm kiếm việc làm, phối hợp với các doanh nghiệp để tạo việc làm cho các phạm nhân nhưng công tác hướng nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động cho phạm nhân còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, số người bị kết án phạt tù tăng tạo áp lực lớn đối với công tác cải tạo, giam giữ. Trong khi đó, hầu hết các trại giam đóng quân trên địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, nhất là các trại giam khu vực phía Bắc và miền Trung có diện tích nhỏ, phân tán, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, các doanh nghiệp không muốn đầu tư sản xuất vào các trại giam vì lợi nhuận thu lại không cao.

Theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì phạm nhân có quyền được lao động, học tập, học nghề theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, công tác này đang gặp rất nhiều khó khăn vì các trại giam ở xa trung tâm kinh tế, chính trị của các địa phương, khó tiếp cận với các thị trường tiêu thụ sản phẩm như đô thị, thành phố, khu công nghiệp; giao thông đi lại khó khăn làm tăng chi phí vận chuyển.

Mặc dù pháp luật cho phép trại giam được sử dụng đất, hợp tác với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để xây dựng nhà xưởng lao động, dạy nghề trên đất trại giam quản lý. Tuy nhiên, việc sử dụng đất phải chặt chẽ, bảo đảm nhiệm vụ an ninh là chính. Các doanh nghiệp, cá nhân hợp tác chỉ được phép khai thác tài sản đầu tư trên đất, quyền trực tiếp quản lý đất đai là các trại giam. Vì trại giam là đất an ninh – quốc phòng nên khi Bộ Công an có quyết định thu hồi, xoá bỏ phương án sử dụng đất thì rủi ro, thiệt hại về giá trị tài chính, thanh lý hợp đồng, tài sản trên đất cơ bản sẽ do tổ chức, cá nhân hợp tác phối hợp với các trại giam chịu trách nhiệm, tiềm ẩn nhiều thiệt hại về kinh tế, dẫn đến các tổ chức, cá nhân ngần ngại xem xét đầu tư hoặc khó thực hiện mong muốn hợp tác lao động, tạo việc làm ngành nghề có tính chất lâu dài với trại giam.

Ngoài ra, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng trước khi mời gọi tổ chức, cá nhân hợp tác cũng tăng chi phí đầu tư của Nhà nước, Bộ Công an, trong khi nguồn nhân lực tài chính để tổ chức, đầu tư cho hoạt động tổ chức lao động, hướng nghiệp, dạy nghề chỉ được bố trí, khai thác từ nguồn kết quả phạm nhân hàng năm với giá trị nguồn vốn hạn hẹp, rất ít so với yêu cầu đầu tư tổng thể diện tích xưởng lao động, dạy nghề cho các trại giam thuộc Bộ Công an.

Các ngành nghề lao động hiện nay của phạm nhân cơ bản là lao động chân tay như sơ chế rau xanh, thủ công, nông nghiệp, chăn nuôi… nên yêu cầu về trình độ, kỹ năng lao động thấp, thời gian hợp tác thường ngắn, theo từng năm. Một số ít trại giam tìm kiếm, bố trí, tổ chức loại hình lao động về may mặc, bao bì nhưng quy mô nhỏ. Các nghề lao động kỹ thuật cao không có điều kiện để đào tạo, nâng cao trình độ nên lao động của phạm nhân trong trại giam không phản ánh sát với yêu cầu trình độ lao động của thị trường, làm giảm hiệu quả của tái hoà nhập cộng đồng.

Nghị quyết được thông qua sẽ tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các trại giam

Thiếu tướng Trần Văn Thiện cho biết, mục đích của việc xây dựng Nghị quyết thí điểm mô hình tổ chức, hoạt động lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam nhằm tạo cơ sở thống nhất để tổ chức thực hiện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các trại giam trong vấn đề này; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác thi hành án phạt tù, công tác chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù trong thời gian tới; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phạm nhân; giúp phạm nhân được hướng nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng, tay nghề, được thụ hưởng các thành quả lao động, mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù.

Một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm khi tổ chức hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân ngoài trại giam, đó là đảm bảo an ninh, an toàn, đảm bảo hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo. Nói về phương án đảm bảo an ninh, an toàn khu lao động ngoài trại giam, Thiếu tướng Trần Văn Thiện cho biết, phương án an ninh, an toàn cho khu lao động ngoài trại giam được tính toán chặt chẽ từ trình tự thủ tục, kế hoạch tổ chức hoạt động lao động, hướng nghiệp cho phạm nhân. Theo đó, doanh nghiệp phải xây dựng khu quản lý, giam giữ, công trình làm việc của CBCS, nhà xưởng nơi phạm nhân lao động, vị trí bố trí việc làm, dây chuyền tổ chức lao động, các điều kiện đảm bảo việc bố trí quản lý giam giữ, vệ sinh an toàn cháy nổ, vệ sinh lao động… theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi ký kết hợp tác, các doanh nghiệp phải bàn giao cho trại giam toàn bộ cơ sở hạ tầng để trại giam quản lý, sử dụng khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề trong thời gian hợp tác. CBCS trại giam trực tiếp giám sát và tổ chức lao động, dạy nghề cho phạm nhân theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn, quy trình lựa chọn phạm nhân đưa ra lao động, hướng nghiệp ngoài trại giam cũng hết sức cụ thể, rõ ràng. Phải đảm bảo có nơi cư trú rõ ràng, có tư tưởng ổn định, chấp hành nghiêm nội quy giam giữ, kết quả cải tạo khá, tốt từ 3 kỳ xếp loại trở lên.

“Dự thảo Nghị quyết cũng đã nêu rất rõ Viện KSND cấp tỉnh nơi trại giam đóng tại địa phương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù khu lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân” – Thiếu tướng Trần Văn Thiện nhấn mạnh.

Là phạm nhân đang thi hành án ở Trại giam Đắk Tân (Đắk Lắk), qua nghe truyền hình và đọc báo, Nguyễn Thanh Văn, SN 1977, trú ở TP Buôn Ma Thuột biết tin Quốc hội đang thảo luận về chính sách cho phạm nhân ra ngoài học tập, lao động, cải tạo nên mừng lắm. Văn bị án phạt 28 năm vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hiện nay đã chấp hành được hơn 12 năm rất mong chờ được ra lao động. “Chúng tôi luôn nỗ lực chấp hành án tốt nhất để về với xã hội. Bản thân tôi nhờ cải tạo tốt nên được bầu làm đội trưởng đội tự quản phạm nhân. Nếu được ra ngoài làm thì chúng tôi có cơ hội được học và làm nghề phù hợp với xã hội, được trả công để bồi dưỡng thêm, được trích quỹ để sau khi về nhà có chút tiền trang trải cuộc sống trước mắt”- phạm nhân Văn cho biết.

Phạm nhân này cũng cho biết thêm, bản thân luôn chấp hành nghiêm và thường xuyên vận động các phạm nhân khác cũng chấp hành nghiêm quy định của Trại. Phạm nhân khẳng định: “Nếu chấp hành đúng nội quy, quy định, học tập, lao động nghiêm túc, chúng tôi mới được xếp loại khá, tốt, mới được giảm án để sớm trở về. Chính vì vậy, dù lao động ở trong trại hay ngoài trại thì chúng tôi đều luôn nỗ lực để sớm được hưởng khoan hồng”.

Phương Thúy – Báo điện tử CAND

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi Thư khen anh Đinh Văn Chiến dũng cảm cứu người

Ngày 31-5, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã gửi thư khen anh Đinh Văn Chiến, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.

Trong thư, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ xúc động khi biết tin anh Đinh Văn Chiến đã nhanh trí, tài tình và dũng cảm cứu được 3 người khỏi tình huống hiểm nguy đến tính mạng vào chiều 29-5 trên đường đèo Tam Đảo và càng cảm phục hơn khi biết anh là vị cứu tinh của nhiều người trên cung đường này. Chủ tịch nước nhấn mạnh, hành động của anh Đinh Văn Chiến là tấm gương sáng về sự dũng cảm, tinh thần nghĩa hiệp, không ngại nguy hiểm, khó khăn để giúp đỡ người hoạn nạn. Đây là một trong nhiều phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam ở mọi thời đại, xứng đáng được biểu dương và lan tỏa trong cộng đồng.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Ảnh: TTXVN 

Qua sự việc này, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc muốn nhắn nhủ tới người tham gia giao thông cần nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm trước, trong và sau khi di chuyển trên đường, phải thường xuyên kiểm tra độ an toàn của phương tiện, bảo đảm tập trung và chú ý quan sát khi lái xe, chấp hành đúng luật giao thông và biết quan tâm, giúp đỡ người khác khi cần thiết. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh việc phối hợp, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hạn chế tối đa việc xảy ra tai nạn giao thông, đặc biệt với các tuyến đường đèo, dốc, tăng cường hướng dẫn, tuyên truyền nâng cao ý thức và kỹ năng cho người đi đường để giao thông được thông suốt, góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của mọi người.

Với tình cảm chân thành, Chủ tịch nước chúc anh Đinh Văn Chiến cùng gia đình luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.

TTXVN

Nỗ lực ngăn chặn, đấu tranh, phản bác các sản phẩm truyền thông độc hại trên Internet

(TG) - Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn Thành phố, trong 5 năm qua, Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể để thực hiện tốt công tác tập hợp, giáo dục thanh niên  trên không gian mạng, trong đó có các giải pháp góp phần ngăn chặn, đấu tranh phản bác các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại trên không gian mạng góp phần bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng.

Chương trình "Âm nhạc dân tộc học đường" với sự tham gia biểu diễn của các nghệ sĩ đến từ Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, nghệ sĩ Nhà văn hóa Sinh viên TP.Hồ Chí Minh và sinh viên Trường ĐH Công nghệ Thông tin

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, nhiệm kỳ 2017 - 2022 đã xác định nhiệm vụ: “Nâng cao tính chiến đấu và hiệu quả công tác phản tuyên truyền, chủ động phản bác, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động, sai lệch, đặc biệt là các thông tin trên mạng xã hội; chủ động sử dụng mạng và hướng dẫn thanh niên cách ứng xử văn hóa, đúng đắn với thông tin trên mạng xã hội”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn Thành phố, trong 5 năm qua, Thành Đoàn đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể để thực hiện tốt công tác tập hợp, giáo dục thanh niên  trên không gian mạng, trong đó có các giải pháp góp phần ngăn chặn, đấu tranh phản bác các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại trên không gian mạng góp phần bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng.

PHÁT HUY VAI TRÒ CÁC CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG, LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Trước hết, Thành Đoàn đã, đang phát huy các cơ quan báo chí - xuất bản, các kênh thông tin trực thuộc như Báo Tuổi Trẻ, Báo Khăn Quàng Đỏ, Truyền hình Thanh niên (trên HTV), chương trình “Sức trẻ Thanh niên Thành phố Anh hùng” (trên VOH), Nhà xuất bản Trẻ, Trang tin điện tử Thành Đoàn và hệ thống trang tin điện tử của các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp trực thuộc, các cơ sở Đoàn; tăng cường ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, mạng xã hội trong triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục của Đoàn. Tận dụng hệ thống các trang cộng đồng, nhóm cộng đồng do Đoàn - Hội - Đội Thành phố quản lý: Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh học tập và làm theo lời Bác, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh với pháp luật, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, Sinh viên Thành phố Bác, Sinh viên TP. Hồ Chí Minh - Những câu chuyện đẹp, Thiếu nhi TP. Hồ Chí Minh, Phụ trách Đội TP. Hồ Chí Minh, Mùa hè xanh - TP.Hồ Chí Minh, Tiếp sức mùa thi TP.Hồ Chí Minh, Chiến dịch tình nguyện Hành quân xanh TP.Hồ Chí Minh, Chiến dịch tình nguyện Hoa phượng đỏ TP.Hồ Chí Minh, Công tác Quốc tế thanh niên, nhóm GO VOLUNTEER!,… trở thành những kênh thông tin hiệu quả để tuyên truyền, định hướng thẩm mỹ, lối sống văn hóa, các giá trị sống tích cực cho đoàn viên, thanh niên; đấu tranh, phê pháp những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc trong xã hội và trong giới trẻ. 

Trong 5 năm qua (2017 - 2022), Thành Đoàn đã triển khai Cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, củng cố hệ thống Câu lạc bộ Lý luận trẻ từ cấp thành đến cơ sở, phát triển “văn hóa đọc”, xây dựng “văn hóa thưởng thức” nhằm khuyến khích hình thành thói quen xem, nghe, đọc và các loại hình giải trí, các sản phẩm văn hóa, văn nghệ có giá trị nhân văn trong thanh thiếu nhi; tích cực phối hợp vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn hóa nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao.

Lễ ra mắt CLB Lý luận trẻ Thành đoàn TP. Hồ Chí Minh

Ban Thường vụ Thành Đoàn đã ban hành Kế hoạch số 155-KH/TĐTN- BTG ngày 15/8/2019 của Ban Thường vụ Thành Đoàn “Về việc tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 15-CT/TĐTN-BTG ngày 11/8/2016 của Ban Chấp hành Thành Đoàn và thực hiện Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu nhi giai đoạn 2018 - 2022” của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn” cũng có nhiệm vụ cụ thể “Xây dựng hệ thống tuyên truyền trực quan và đẩy mạnh sử dụng mạng xã hội, các phương tiện truyền thông hiện đại để tăng cường công tác giáo dục cho đoàn viên, hội viên, đội viên, thanh thiếu nhi của Thành phố”.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có hơn 756 nghìn đoàn viên, 117 cơ sở Đoàn trực thuộc và 20 đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp trực thuộc.

NHỮNG GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI TRONG THỜI GIAN TỚI

Để tiếp tục tham gia ngăn chặn, đấu tranh phản bác các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại trên không gian mạng góp phần bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng, Ban Thường vụ Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh xác định những nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, kiên trì triển khai, đẩy mạnh các cấp bộ Đoàn, lực lượng cán bộ Đoàn, thanh thiếu nhi tích cực tham gia cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, Mỗi tuần một câu chuyện đẹp” theo phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”.

Theo đó, cấp bộ Đoàn, cán bộ Đoàn các cấp tích cực tuyên truyền tin tốt, câu chuyện đẹp trước, từ đó lan tỏa ra đoàn viên, thanh thiếu nhi và toàn xã hội, tạo xu hướng lan tỏa những thông tin tích cực, những giá trị tốt đẹp trên các trang thông tin điện tử, mạng xã hội, góp phần xây dựng môi trường sống lành mạnh cho sự phát triển của thanh niên, tham gia xây dựng, phát triển và bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ hai, phát triển các nội dung “Văn hóa thưởng thức” trong thanh, thiếu nhi.

“Văn hóa thưởng thức” là một lối tiếp cận không mới nhưng cũng chưa rộng rãi đối với thanh thiếu nhi. Trước bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, nhiều loại hình giải trí, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của các nước trên thế giới được truyền bá vào Việt Nam thông qua nhiều kênh phát hành, với tốc độ lan truyền nhanh. Trong số đó, có không ít những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật biến tướng, tác động tiêu cực đến thanh thiếu nhi. Bên cạnh đó, vì lợi ích kinh tế, các đơn vị truyền thông, giải trí, một bộ phận thanh thiếu nhi đã thực hiện các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có nội dung phản cảm, không lành mạnh, truyền tải nội dung xấu, độc.

Từ thực tiễn đó, Thành Đoàn triển khai đẩy mạnh việc giáo dục “Văn hóa thưởng thức” nhằm tạo thói quen, kỹ năng và sở thích xem, nghe, đọc các loại hình giải trí, các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị nhân văn, có tính giáo dục, cổ vũ lối sống đẹp trong thanh thiếu nhi. Tăng cường tổ chức các chương trình phát sóng trực tuyến trên các trang cộng đồng để nâng cao “Văn hóa thưởng thức” cho đoàn viên, thanh thiếu nhi như chương trình “Thành phố 18h”, chương trình “Âm nhạc dân tộc học đường”, chương trình “Hát về thời hoa đỏ”, chương trình “Thế hệ mới – Thích ứng – Kết nối và Chia sẻ”, không gian “Âm nhạc – Kết nối”, chương trình “Câu chuyện truyền cảm hứng”,…

Tiết mục của CLB Văn nghệ Xung kích Trường Đại học Văn hoá TP.Hồ Chí Minh

Thứ ba, duy trì và phát triển mô hình Câu lạc bộ Lý luận trẻ - mô hình tập hợp các cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên yêu thích và có khả năng nghiên cứu, trao đổi về lý luận, chính trị, góp phần trang bị cho đội ngũ cán bộ Đoàn, đoàn viên khả năng lý luận, nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nâng cao nhận thức, hun đúc tư tưởng, bản lĩnh chính trị trong đội ngũ cán bộ Đoàn, đoàn viên Thành phố.

Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, đến nay, mô hình Câu lạc bộ Lý luận trẻ đã phát triển tại 100% các cơ sở Đoàn trực thuộc Thành Đoàn, cung cấp một đội ngũ có khả năng lý luận cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thể đấu tranh phản bác các luận điểm chống phá, xuyên tạc trên không gian mạng.

Thứ tư, thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở Đoàn trực thuộc triển khai các đợt sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chi đoàn chủ điểm trong năm.

Các đợt sinh hoạt chính trị lớn ứng với các đợt kỷ niệm, sự kiện trọng đại của đất nước, Thành phố như Kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Kỷ niệm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Kỷ niệm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,… diễn ra sâu rộng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức chính trị của thanh thiếu nhi Thành phố, huy động được một lực lượng lớn cán bộ Đoàn, thanh thiếu nhi tham gia nhận diện, đấu tranh phản bác các tin, bài xấu độc, xuyên tạc, phản động. Các đợt sinh hoạt chi đoàn chủ điểm diễn ra định kỳ tháng 3 và tháng 10 hằng năm cũng là dịp quan trọng để tổ chức Đoàn thực hiện công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, trang bị lý luận cách mạng, hun đúc lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị cho mỗi đoàn viên, thanh thiếu nhi.

Thứ năm, phát triển và mở rộng hệ thống các trang cộng đồng rộng lớn, tiêu biểu là Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, Sinh viên Thành phố Bác, GO VOLUNTEER!...

Đây đều là những trang có lượng theo dõi, tương tác lớn của thanh thiếu nhi. Mỗi khi có một mệnh lệnh hành động thống nhất, các trang đều chia sẻ chung một bài viết nhằm đấu tranh chống các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại, thực hiện đúng chủ trương “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”.

Thứ sáu, không ngừng chú trọng việc xây dựng một lực lượng nòng cốt tham gia xử lý thông tin trên mạng, sử dụng hiệu quả các ứng dụng nhắn tin để chỉ đạo lực lượng này kịp thời phát hiện và xử lý các sản phẩm văn hóa xấu độc.

Trong những năm gần đây, Thành Đoàn luôn quan tâm xây dựng lực lượng nòng cốt trong thanh niên để chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tích cực, ngăn chặn, phản bác các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại. Lực lượng này được phủ khắp các khu vực trên địa bàn Thành phố, có mặt ở cả khu vực địa bàn dân cư, công nhân lao động và trường học; đặc biệt chú trọng phát triển từ đội ngũ cán bộ trẻ, đoàn viên thanh niên được đào tạo chuyên môn bài bản trong các lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, khối ngành khoa học xã hội và nhân văn, các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn hóa, nghệ thuật…

Trước những diễn biến phức tạp của cuộc đấu tranh ngăn chặn, phản bác các sản phẩm văn hóa, truyền thông độc hại trên không gian mạng, để phát huy vai trò của thanh niên trên mặt trận này, tổ chức Đoàn Thành phố quan tâm bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên, nâng cao nhận thức của thanh thiếu nhi với việc bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng qua các đợt sinh hoạt chính trị lớn, các hoạt động của Câu lạc bộ Lý luận trẻ; bảo đảm thanh niên “miễn dịch” với các các sản phẩm văn hóa, truyền thông xấu, độc, được trang bị đủ năng lực thực tiễn, khả năng lý luận, kỹ năng đấu tranh trên không gian mạng nhằm kịp thời nhận diện, phân biệt và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn thành phố thực hiện phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” phát huy tối đa hiệu quả của Cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, xây dựng văn hóa thưởng thức cho đoàn viên thanh thiếu nhi; qua đó vừa định hướng cho thanh thiếu nhi các giá trị sống nhân văn, tích cực, vừa góp phần đẩy lùi các sản phẩm truyền thông độc hại.

Phan Thị Thanh Phương

Bí thư Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh

Luận điệu sai trái về chủ trương thành lập Ban chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh

Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về chủ trương thành lập ban chỉ đạo (BCĐ) cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN,TC). Lợi dụng sự kiện trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Nhận diện luận điệu sai trái

Trên nhiều trang mạng xã hội của các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông hải ngoại chống phá Việt Nam như RFA, VOA, RFI… phát tán nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII), trong đó tập trung đả phá Đề án thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC.

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thảo luận và thống nhất chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ảnh: TTXVN)

Các thế lực thù địch quy kết công tác PCTN “chỉ là mị dân”, ngụy biện “tham nhũng là sản phẩm của chế độ, thể chế chính trị ở Việt Nam”, quy kết “tham nhũng do chế độ độc đảng cầm quyền”! Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, chủ trương thành lập BCĐ PCTN,TC cấp tỉnh là “không cần thiết, chỉ tốn tiền của dân”, cho rằng việc làm này là “giả tạo”, vẽ ra câu chuyện “ta đánh ta”, “cộng sản thì ai cũng tham nhũng”… Mục đích các bài viết nhằm quy kết tham nhũng là “bản chất của chế độ”, từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải “xã hội dân sự”…

Đây thực chất là trò chống phá kiểu “bình mới rượu cũ” của số đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Số này cố gắng vẽ ra bức tranh tối màu về công tác PCTN của Việt Nam, phớt lờ thực tế hiệu quả công tác PCTN, phủ nhận mọi cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc đẩy lùi vấn nạn tham nhũng; tìm cách gieo rắc tâm lý bất an, gây ra sự hoài nghi về các chủ trương, quyết sách của Đảng về PCTN, TC, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, lấy cớ kích động gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự đối lập, bất ổn từ bên trong.

Tham nhũng là vấn nạn của nhiều quốc gia

Thực chất, tham nhũng là hiện tượng xã hội đã xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, nó tồn tại trong mọi chế độ chính trị khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực. Bản chất của tham nhũng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế và cho dù chế độ chính trị nào, chủ nghĩa xã hội hay tư bản chủ nghĩa, chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì vẫn có nạn tham nhũng. Một số ví dụ điển hình về tham nhũng ở các nước có chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị như: Vụ Watergate - vụ bê bối về quyền lực chính trị để trục lợi từ 1972 - 1974 của Tổng thống Mỹ Richard Nixơn. Trước nguy cơ bị Quốc hội phế truất ngày 9/8/1974, Tổng thống Mỹ Richard Nixơn buộc phải từ chức, đây là Tổng thống đầu tiên và duy nhất trong lịch sử nước Mỹ phải từ chức khi đang là Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai.

Tổng thống Philippines Joseph Estrad (1998 - 2001) phạm tội tham nhũng phải ngồi tù chung thân; Thủ tướng Ukraine (1996 - 1997) Pavlo Lazarenko đã biển thủ 200 triệu USD từ ngân sách nhà nước (tương đương nửa triệu USD/ngày trong thời gian làm Tổng thống) phải bỏ trốn sang Hoa Kỳ; Tổng thống Hàn Quốc Park Geun - hye bị Quốc hội Hàn Quốc phế truất vào tháng 12/2016 do bị buộc tội tham nhũng, dính líu đến vụ bê bối chính trị dùng quan hệ cá nhân để tăng ảnh hưởng và trục lợi tài chính…

Tham nhũng là một vấn đề nan giải, một căn bệnh nhức nhối với những biến dạng rất phức tạp, đang hoành hành trên nhiều lĩnh vực, gây ra những hậu quả tiêu cực ở các quốc gia với chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, đấu tranh bài trừ tham nhũng được các nước rất quan tâm, thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trên nhiều phương diện như pháp luật, hành chính, chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa, lối sống… Trung Quốc ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong cán bộ Đảng và Nhà nước.

Trong khi đó, Luật Chống tham nhũng (năm 1989) của Singapore cho phép tòa án tịch thu tài sản của công chức nếu họ không giải thích được nguồn gốc tài sản đó. Thái Lan yêu cầu các cơ quan chức năng phải xem xét tất cả đơn thư tố giác của người dân về tham nhũng, dù có ký tên hay không ký tên. Một số nước như Colombia, Brazil… còn thiết lập các đường dây nóng để thu nhận tin tức về tội phạm nói chung và tham nhũng nói riêng.

Không thể phủ nhận kết quả PCTN, TC ở Việt Nam

Ở nước ta, cuộc chiến PCTN,TC đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Thành quả đó để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận.

Theo số liệu của BCĐ Trung ương về PCTN tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) đã bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 so với năm 2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là những con số biết nói, khẳng định công tác đấu tranh PCTN “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Chính những thành quả trong công tác PCTN đã góp phần loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, làm trong sạch đội ngũ, nhằm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Việc xử lý nghiêm minh có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe phòng ngừa chung, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ; khẳng định vị thế, uy tín của Đảng, đất nước ta trên trường quốc tế. Điều này cũng bác bỏ những luận điệu xảo trá, suy diễn của các lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC là cần thiết, quan trọng

Năm 2006, BCĐ Trung ương về PCTN được thành lập và được xác định là cơ quan trực thuộc Chính phủ, do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, có chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác PCTN trong phạm vi cả nước. Năm 2007, các BCĐ PCTN cấp tỉnh được thành lập theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN (năm 2007) và Nghị quyết số 294A/2007/UBTVQH12, ngày 27/9/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động của BCĐ Trung ương về PCTN trong giai đoạn này còn một số hạn chế, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Do vậy, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (năm 2012), đã quyết định tổ chức lại BCĐ về PCTN, chuyển đổi mô hình BCĐ trực thuộc Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu sang mô hình BCĐ trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư đứng đầu. Hội nghị cũng quyết định không tổ chức BCĐ tỉnh, thành phố về PCTN.

Tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo công tác PCTN và có trách nhiệm phối hợp với BCĐ Trung ương về PCTN khi có vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Mục đích của sự thay đổi này nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác đấu tranh PCTN, tăng cường tính độc lập tương đối của BCĐ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong công tác đấu tranh PCTN.

Mô hình BCĐ Trung ương trực tiếp do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong công tác PCTN. Điều đó thể hiện rất rõ ở nhiệm kỳ khóa XII, XIII khi số lượng vụ, việc tham nhũng, kinh tế được phát hiện, xử lý tăng lên rất nhiều. Thực tiễn hoạt động của BCĐ Trung ương là bài học kinh nghiệm quý giá để công tác PCTN,TC ở các cấp, ngành, địa phương học hỏi, làm theo.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác trong chỉ đạo PCTN được cọ xát qua thực tiễn. Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo đi vào nền nếp, bài bản, khoa học. Các thành viên, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Sau khi BCĐ Trung ương về PCTN hoạt động thể hiện được tính hiệu quả, ưu việt thì có đủ lộ trình, thời gian và sự chuẩn bị nguồn lực phù hợp để thành lập BCĐ cấp tỉnh đủ mạnh, có thực quyền, trở thành “cánh tay nối dài” của BCĐ Trung ương, phục vụ đắc lực cho hoạt động PCTN, tiêu cực ở địa phương.

Tham nhũng hiện vẫn diễn biến rất phức tạp, được xem là một trong các nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Mặc dù kết quả PCTN,TC thời gian qua đạt được là rất quan trọng song công tác PCTN,TC ở nhiều ngành, địa phương chưa có sự chuyển biến rõ nét; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được ngăn chặn có hiệu quả; vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong đấu tranh PCTN,TC.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN,TC tại địa phương đã bộc lộ bất cập, nhất là trong chỉ đạo phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, do đó nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã đề xuất, kiến nghị thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN,TC. Những tồn tại, hạn chế này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó có nguyên nhân từ tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng PCTN,TC chưa thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; cơ chế chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan chức năng PCTN,TC ở địa phương chưa được tập trung, thống nhất.

Như vậy, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập BCĐ cấp tỉnh về PCTN, tiêu cực là chủ trương quan trọng, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt!”. Đây là những cơ sở để phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

Đại Thắng - Báo CAND điện tử

12 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển KT-XH từ nay đến cuối năm

Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XV, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã trình bày 12 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2022

ĐBQH: Việc xuyên tạc lịch sử đang “ký sinh” trên nghệ thuật thứ 7

 Nói về các nội dung trong dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) đang được trình Quốc hội xem xét, đóng góp ý kiến, đại biểu Phạm Trọng Nhân, đoàn Bình Dương cho rằng, chỉ vài ngày nữa dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) sẽ được thông qua, song những người làm điện ảnh chân chính, tâm huyết vẫn còn đó không ít tâm tư để tiếp tục chuyển tải những thông điệp về cuộc sống qua từng lăng kính, thước phim.

Bên cạnh việc tiếp thêm những chế định để điện ảnh nước nhà bay cao, vươn xa thì dự luật này phải đảm đương sứ mệnh là công cụ bảo vệ nền tảng tinh thần của xã hội cũng như những sự thật thiêng liêng trước những thông tin xuyên tạc lịch sử, những nội dung xấu, độc, đồi trụy mà nhiều nền tảng xuyên biên giới phổ biến trên không gian mạng đang ngang nhiên tấn công vào tâm thức người xem.

Tuy nhiên, dự thảo lại xây dựng cơ chế hậu kiểm đối với phổ biến phim trên không gian mạng mà điển hình là các nền tảng xuyên biên giới tại điểm a khoản 2 Điều 18, điểm b khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 27. Trong khi việc để các nền tảng này tự do đi lại trên mặt trận văn hóa thời gian qua đã gây nên những tổn thương không hề nhỏ đến đời sống tinh thần của xã hội.

Đại biểu Phạm Trọng Nhân dẫn chứng như kể từ khi xâm nhập thị trường Việt Nam, Netfix đã phổ biến ít nhất 3 phim có nội dung vi phạm chủ quyền lãnh thổ đất nước như "Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta" đến "Bà Ngoại trưởng" và gần đây nhất là "Bill Gates".

“Như vậy, từ câu chuyện trong đời sống thực với giàn khoan HD 981 thì nay chủ quyền lãnh thổ đã và đang đối diện với một hình thái khác mà việc xuyên tạc lịch sử đang ký sinh lên nghệ thuật thứ bảy và những thành tựu khoa học công nghệ. Rõ ràng vị khách này không hề có thiện chí cũng như thiếu sự tôn trọng chủ nhà và dĩ nhiên không phải vô tình để vi phạm hết lần này đến lần khác. Hệ lụy của nó sẽ đi đến đâu nếu tiếp tục để môn Lịch sử là môn tự chọn của học sinh ở lứa tuổi đã bắt đầu có những tư duy và nhận thức độc lập.

Gỡ bỏ nội dung sai phạm là một việc làm không nhiều ý nghĩa vì người xem đã kịp tải xuống để đăng tải trên các nền tảng khác. Do đó, mặc dù báo cáo giải trình đã cố gắng lý giải nhưng chưa thể thỏa mãn với những gì đã và đang diễn ra trên không gian mạng”, đại biểu Phạm Trọng Nhân nói.

Theo ông Nhân, điều đáng nói là các nội dung độc hại đang từng ngày lần mò len lỏi, cài cắm vào tâm thức người xem, mà tệ hại nhất là giới trẻ khi smartphone đã quá phổ biến và việc xem các nội dung trên các nền tảng này mọi lúc, mọi nơi. Không dừng lại ở đó, các nền tảng xuyên biên giới này còn kiếm lợi bất chính khi doanh thu hàng ngàn tỷ đồng từ cung cấp dịch vụ nhưng chưa đóng một đồng tiền thuế tại nhiều nước sở tại trong đó có Việt Nam. Khi chất vấn tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, nhiều ý kiến đại biểu cũng như phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã minh chứng và làm rõ hơn vấn đề trên.

“Khởi nguồn của nghệ thuật thứ 7 là vị nhân sinh, việc lợi dụng những thành tựu nhân loại, nó đã bị thao túng để phục vụ động cơ vì tiền bạc thay vì hoán cải con người và xã hội trên những nền tảng của chân, thiện, mỹ. Với những khuất tất, khuyết tật vô cùng độc hại cho xã hội như trên, nhưng phổ biến phim trên không gian mạng không phải trải qua quy trình chặt chẽ để được cấp phép phân loại phim như hệ thống rạp hay các điểm chiếu phim công cộng thì liệu đã đảm bảo nguyên tắc, đảm bảo sự bình đẳng cạnh tranh công bằng của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh và phát triển công nghiệp điện ảnh mà ngay từ đầu dự thảo đã đặt ra. Vì sao cùng một nền tảng chính sách nhưng lại có sự phân biệt đối xử, tiền kiểm và hậu kiểm trong khi cùng thực hiện hành vi phổ biến phim”, ông Nhân nêu vấn đề.

Đại biểu đoàn Bình Dương cũng cho rằng, với những vi phạm có chủ ý và có tính chất hệ thống hết lần này đến lần khác thì ở góc độ quản lý vẫn còn đó những trăn trở. Phải chăng hậu kiểm đã "nhờn thuốc" khi các vi phạm cứ lặp đi lặp lại và đồng thời cho thấy một khoảng trống pháp lý trong bảo vệ chủ quyền văn hóa và tâm thức của mọi người trước hành động xâm lăng được bao bọc bởi vẻ ngoài gắn mác nghệ thuật thứ bảy. Vấn đề đáng nói chính là dự thảo vẫn chế định cơ chế hậu kiểm thì liệu đã đánh giá thận trọng những nguy hại khôn lường từ nền tảng xuyên biên giới hay chưa?

Giải thích điều này, tờ trình tại kỳ họp thứ hai có nêu "cần xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt về mặt kỹ thuật, về nhân lực và khả năng thực hiện kiểm soát, thẩm định nội dung phim". Với khối lượng đăng tải và truy cập phim hiện nay chưa có giải pháp hiệu quả nhằm kiểm soát khối lượng thông tin này. Tuy nhiên, theo đại biểu Phạm Trọng Nhân, việc lấy những khó khăn về nhân lực để lý giải cho quy định hậu kiểm đối với phổ biến phim trên không gian mạng, trong khi các công đoạn tiền kiểm hiện nay đều được số hóa và được thực hiện trên các phần mềm chuyên dụng mà các cơ quan thông tấn báo chí quốc gia hiện đang duyệt từng chương trình truyền hình nước ngoài, bao gồm hàng chục ngàn bộ phim mỗi năm trên hàng chục kênh truyền hình phát sóng 24/7 vào Việt Nam liệu đã đủ thuyết phục hay chưa?

"Giữa nỗ lực phải thể chế hóa cùng trách nhiệm của ngành và những lý giải hậu kiểm như trên của tờ trình thì đâu sẽ là giải pháp để bảo vệ ngọn đèn văn hóa trong hành trình soi đường cho quốc dân đi", ông Nhân đặt câu hỏi.

Đại biểu Phạm Trọng Nhân lo ngại, nếu như các nền tảng Google, Facebook, Tiktok âm thầm theo dõi, định vị, thay đổi tâm thức người dùng từ khi gõ phím, tìm kiếm đến việc ghi âm các cuộc thoại, phân tích thông tin chứa đựng trong đó đến các thao tác tưởng chừng vô hại như những like, share, thả tim trên các dòng trạng thái thì việc cung cấp các dịch vụ phim ảnh qua các nền tảng xuyên biên giới cũng là một cách thức tấn công vào tâm thức con người bằng những tư tưởng sai lệch về giá trị văn hóa được lồng vào những câu chuyện tưởng chừng chỉ mang tính chất giải trí.

Do đó, đại biểu Nhân đề nghị Ban soạn thảo, cơ quan thẩm tra và Quốc hội phải cân nhắc kỹ lưỡng điểm a khoản 2 Điều 18; điểm b khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 27 về hậu kiểm đối với việc phổ biến phim trên không gian mạng. Cần giải pháp để các nền tảng xuyên biên giới không có bất kỳ cơ hội nào xâm lấn bờ cõi tư tưởng văn hóa người xem nói riêng và hàng chục triệu người nói chung./.

Theo VOV

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2022

Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa nhân dân ta đang xây dựng

(TG) - Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay. Một trong những vấn đề được Tổng Bí thư rất nhấn mạnh là chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ tính ưu việt về chế độ xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và thăm nơi ở, làm việc của Người. (Ảnh: TTXVN)

1. ĐIỂM NHẤN VỀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Về bản chất, phát triển kinh tế trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) luôn hướng đến và bao hàm sự tiến bộ, công bằng xã hội. Tiến bộ, công bằng xã hội không chỉ bị quy định bởi điều kiện, trình độ kinh tế mà nó còn là mục tiêu hướng đến, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm cho kinh tế phát triển lành mạnh. Tuy nhiên, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(1), ngay từ khi khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chọn phương thức thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Qua 35 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã có những bước chuyển căn bản so với trước đó. Từ chỗ đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản (CNTB) đến thừa nhận giá trị nhân loại của kinh tế thị trường và sáng tạo nên nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, khẳng định đây là mô hình tất yếu để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Từ chỗ Đảng, Nhà nước bao cấp toàn bộ trong giải quyết việc làm và thực hiện chính sách xã hội chuyển sang Nhà nước tạo cơ chế để các giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, xã hội cùng tạo việc làm cũng như giải quyết các vấn đề xã hội. Từ chỗ chưa đặt đúng vị trí, vai trò chính sách xã hội trong tương quan với chính sách kinh tế đã đi đến nhận thức về sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất biện chứng giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem phát triển kinh tế là cơ sở, tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội và xem việc thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đây là sự thay đổi căn bản tư duy lý luận của Đảng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Tiếp tục phát triển quan điểm của Đảng, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trước khi làm rõ thêm đặc trưng của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, Tổng Bí thư đã chỉ ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Đó là một xã hội “lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội”(2). Tổng Bí thư khẳng định, đó là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng TBCN. Đây là sự lý giải gián tiếp tại sao Việt Nam không lựa chọn phát triển đất nước theo con đường TBCN.

Mặc dù không phủ nhận những thành tựu to lớn mà CNTB đã mang lại, đặc biệt là khoa học và công nghệ song Tổng Bí thư cũng chỉ rõ những mâu thuẫn mang tính bản chất của chế độ TBCN. Điều đó được thể hiện rõ nét qua những cuộc khủng hoảng trên quy mô lớn của các nước tư bản phát triển - những cuộc khủng hoảng mà Tổng Bí thư cho rằng nó đã “chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó”(3) (tức là phương thức sản xuất và tiêu dùng TBCN). Từ đó, Tổng Bí thư đưa ra quan điểm rất rõ ràng: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”(4). Đây là điểm nhấn quan trọng, vừa là sự cụ thể hóa hơn, vừa cho thấy rõ sự phát triển quan điểm của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn với phát triển kinh tế, bởi lẽ Tổng Bí thư đã nhấn mạnh thêm tính ưu việt của chế độ xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Tính ưu việt đó không chỉ được thể hiện trên phương diện lý luận, với những chủ trương, đường lối mà còn được hiện thực hóa thông qua những chính sách quản lý và phát triển xã hội đã và đang thực hiện thời gian qua.

Người dân tham gia kiểm tra, giám sát công tác vận hành, công tác bảo vệ môi trường, xử lý xỉ than trong Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1, huyện Tuy Phong (tỉnh Bình Thuận). (Ảnh: TTXVN) 

Đồng chí Tổng Bí thư còn chỉ rõ một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. “Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”(5). Quan điểm này tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng XHCN.

Những lời khẳng định của Tổng Bí thư là lập luận giàu sức thuyết phục minh chứng cho tính ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Đó cũng chính là luận cứ khoa học sắc bén để đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, cố tình xuyên tạc về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Gần đây, một số quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm của chế độ TBCN nên “không thể dung hợp với CNXH”. Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chỉ là “sự gán ghép vô nguyên tắc” theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, “đầu Ngô mình Sở”(6). Có ý kiến còn cho rằng: “Chủ trương kinh tế thị trường định hướng XHCN là không thực tế và thiếu khoa học”(7). Do đó, cần phải bỏ đuôi “định hướng XHCN” để kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo đúng xu thế thời đại. Có như vậy, nền kinh tế Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu!

Về mặt lý luận, sai lầm của những quan điểm trên là đồng nhất kinh tế thị trường nói chung với kinh tế thị trường CNTB. Họ cho rằng chỉ có một loại kinh tế thị trường là kinh tế thị trường CNTB. Thực chất, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, CNTB đã lấy kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Điều này cũng đã được Đảng ta chỉ rõ ở Đại hội IX: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại”(8). Nhận thức được điều đó, thời gian qua, Đảng ta đã coi kinh tế thị trường là công cụ, phương tiện, cách thức cần thiết để xây dựng CNXH ở Việt Nam. Với tư duy sáng tạo, Đảng ta đã đưa ra chủ trương về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong đó phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được coi là một trong những điểm nhấn quan trọng nhất, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.

Thời gian qua, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN không ngừng có sự bổ sung, phát triển qua mỗi giai đoạn. Do đó, những quan điểm sai trái, thù địch về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hoặc là do nhận thức không đúng về bản chất của kinh tế thị trường, hoặc cố tình xuyên tạc, đối lập kinh tế thị trường với XHCN.

Về mặt thực tiễn, đúng như Đảng ta và đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, sau 35 năm tiến hành đổi mới đất nước, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta ngày càng lớn mạnh. Việt Nam không chỉ có nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá mà còn có các chính sách phát triển xã hội hài hòa, nhân văn, vì con người. Hơn 35 năm qua, với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Đây là những bằng chứng thực tiễn đầy sức thuyết phục đã được Tổng Bí thư chỉ rõ trong bài viết, vừa để khẳng định chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là đúng đắn song cũng là luận cứ thực tiễn sắc bén nhằm phản bác những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

2. NỘI HÀM CỦA CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Nội hàm của chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam được thể hiện qua những khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, mục tiêu của chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là đặc trưng đầu tiên của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cùng với “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân”(9) là một trong 8 phương hướng cơ bản để từng bước hiện thực hóa 8 đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN ở Việt Nam. Đồng thời, theo tinh thần của Đại hội XIII, quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(10) là một trong 10 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt để xây dựng thành công CNXH.

Thứ hai, chính sách xã hội được đặt ngang hàng với chính sách kinh tế; đồng bộ, tương thích với trình độ phát triển kinh tế và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ. Chính sách xã hội hướng đến con người vì con người là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, phải “kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần…”(11) đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp và tích cực xóa đói, giảm nghèo bền vững.

Thứ ba, “xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”; “nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội”(12). Xây dựng thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh, an toàn xã hội; bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích; quyền lợi và nghĩa vụ; cống hiến và thụ hưởng.

Thứ tư, thực hiện “quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh”(13). Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, các quan hệ lợi ích trong xã hội. Không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng khẳng định đây là một trong những nội dung cấu thành 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ và là một trong những nội dung cấu thành 12 định hướng cơ bản để phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn năm 2045…

Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. (Ảnh: TTXVN)

Những khía cạnh trên vừa là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vừa xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự phát triển đất nước trong tiến trình đổi mới và phát triển. Nó cũng phản ánh nhu cầu chính đáng của nhân dân là vừa mong muốn có đời sống kinh tế phát triển song cũng đồng thời phải được sống trong xã hội tiến bộ, công bằng. Do đó, chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã cho thấy rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Nó khác hoặc về chất so với những xã hội trước đó, trực tiếp là xã hội TBCN lấy tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận là mục tiêu phát triển chủ yếu. Điều này được C.Mác chỉ rõ trong tác phẩm Tư bản: “Sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức này”(14). Để minh chứng cho điều này, C.Mác đã dẫn lại tờ Quarterly Rewiewer như sau: “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được đảm bảo 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ. Nếu sự ồn ào và cãi cọ đem lại lợi nhuận thì tư bản khuyến khích cả hai. Chứng cứ là; buôn lậu và buôn nô lệ”(15).

Sự hoàn thiện không ngừng trong chủ trương của Đảng ta về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội qua mỗi kỳ Đại hội đã cho thấy Đảng ta luôn đặt mục tiêu phát triển vì con người, coi con người vừa là trung tâm, vừa là động lực của sự phát triển.

Trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định, phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 1980 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Nhiều chính sách xã hội có điều kiện được thực hiện tốt hơn như hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết.

Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội như chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện nay, Việt Nam có hơn 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Việt Nam được đứng vào nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Đây là những bằng chứng không gì thuyết phục hơn nhằm khẳng định đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng ta là đúng đắn, mang lại diện mạo hoàn toàn mới cho đất nước và làm thay đổi về chất cả đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà đồng chí Tổng Bí thư luôn so sánh những đặc trưng bản chất của chế độ TBCN mà nhiều nước trên thế giới đang theo và chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Đây có thể coi là lời khẳng định gián tiếp rằng, với tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay, Việt Nam có thể tự tin sánh vai với nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là trong việc thực hiện các chính sách phát triển xã hội. “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”(16).

Có thể nói, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là sự cụ thể hóa hơn, phát triển hơn chủ trương của Đảng, có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam hiện nay. Một mặt, quan điểm đó tiếp tục cổ vũ, tạo động lực cho nước ta trong phát triển kinh tế song mặc khác cũng đặt ra yêu cầu phải thực hiện đồng thời mục tiêu phát triển xã hội. Điều đó thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, hướng đến mục tiêu phát triển vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc./.

PGS. TS. Lê Văn Lợi

Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

______________________

(1) (2) (3) (4) (5) (16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2022, tr.27, 20, 20, 21, 26-27, 34.

(6) (7) Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tài liệu tham khảo nội bộ), Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H, 2007, tr.58, 59.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.88.

(9) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.72, 79.

(10) (12) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.I, tr.39, 147-148, 116.

(14) (15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,1993, t.23, tr.872, 1056.

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2022

Kích động kỳ thị dân tộc - âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc

{CAND] Kỳ thị thường gắn liền với phân biệt đối xử. Kỳ thị, phân biệt đối xử là một khái niệm giao thoa giữa chính trị - văn hóa và xã hội. Kỳ thị dân tộc, chủng tộc là sự nhìn nhận, đánh giá làm giảm giá trị đối với một một dân tộc, một chủng tộc từ một quan niệm chính trị, văn hóa hoặc xã hội nào đó.

Ở Việt Nam, kể từ khi bắt đầu xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chia để trị và chia cắt nước ta thành ba miền (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với những chính sách khác nhau trên các lĩnh vực chính trị, xã hội và kinh tế nhằm tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa ba miền với âm mưu chia cắt vĩnh viễn. Thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai cũng từng thực hiện chiến lược chia cắt lâu dài hai miền Nam, Bắc hòng tiến đến xóa bỏ chế độ xã hội XHCN và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Khi chủ nghĩa thực dân cũ và mới bị đánh đổ tại Việt Nam, tàn dư của tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối xử dân tộc, chủng tộc đã không còn hiện hữu nữa. Nhưng nhen nhóm sự kỳ thị dân tộc vẫn được các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động hướng đến tư tưởng dân tộc cực đoan trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hòng làm rạn nứt, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và bạo loạn, lật đổ, đưa dân tộc ta sang con đường lệ thuộc nước ngoài.

Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cho thấy, các thế lực thù địch triệt để sử dụng con bài kỳ thị chủng tộc đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan để đòi quyền dân tộc tự quyết. Các thế lực thù địch không chỉ áp dụng thủ đoạn này đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Quốc trong vấn đề Tây Tạng, Nam Tư trong vấn đề Kosovo...

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với những đặc điểm riêng mà nhiều quốc gia khác không có. Với 54 dân tộc anh em, dân số giữa các dân tộc rất khác nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như Pu Péo, Rơ-măm, Brâu... Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư. Các dân tộc Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau. Địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số thường ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Khác với nhiều quốc gia đa dân tộc, các dân tộc thiểu số Việt Nam không có khu vực lãnh thổ riêng mà sống xen kẽ với nhau.

Trọng tâm hoạt động kích động kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc của các thế lực thù địch hướng đến các địa bàn Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, vùng có đông đồng bào theo đạo. Để kích động, chia rẽ người Kinh với đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã sử dụng tổ chức FULRO tuyên truyền, xuyên tạc rằng “Tây Nguyên là của người Thượng”, “đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi”...

Ở Tây Bắc, chúng dựng lên cái gọi là “Vương quốc Mông” để làm cái cớ chia rẽ đồng bào các dân tộc anh em. Chúng vận động đồng bào người Mông về “một miền đất hứa” mọi người sẽ được “ban sức khỏe, hạnh phúc, không làm cũng có ăn, sự giàu sang và phú quý”; “những người Mông đến đây sẽ được chúa trời giáng trần cứu thế”… Từ đó, chúng lôi kéo người dân tụ tập, kích động phá rối gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Ở Tây Nam Bộ, chúng tập trung tuyên truyền tư tưởng “ly khai tự trị”, đòi thành lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm độc lập”. Lợi dụng tranh chấp, khiếu kiện, những vấn đề do lịch sử để lại, vấn đề dân sinh, dân chủ để kích động, tập hợp lực lượng, móc nối lôi kéo, tạo dựng ngọn cờ, thực hiện ý đồ biểu tình, bạo loạn lật đổ; lừa bịp, xúi giục người vượt biên, gây sức ép xin tổ chức UNHCR lập trại tỵ nạn; vu cáo, xuyên tạc Việt Nam có kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Âm mưu trước mắt và lâu dài của chúng nhằm gây mất ổn định chính trị để “quốc tế hóa” vấn đề “Khơme Krôm”, thành lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm tự trị”...

Ngày nay, việc cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, sắc tộc đã được quy định trong nhiều điều ước quốc tế và tạo thành yếu tố quan trọng trong pháp luật của nhiều quốc gia. Trong đó, quan trọng nhất là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, có hiệu lực từ năm 1969 và đến nay đã được 170 nước trên thế giới phê chuẩn. Tại Việt Nam, với chính sách và pháp luật thể hiện tinh thần tiến bộ, bình đẳng, công bằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở cả trên bình diện quốc tế và quốc gia.

Ngày 9/6/1981, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD), với bốn lần đệ trình báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Đặc biệt, Ủy ban Dân tộc đảm nhận là cơ quan đầu mối phụ trách Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc và chuẩn bị Báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước CERD. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện Công ước CERD, đặc biệt là việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số như: Xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội… Trong đó, nhấn mạnh đến những thành tựu trong việc đảm bảo quyền cho người dân tộc thiểu số như: Hệ thống pháp luật, các quy định đảm bảo quyền con người, các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội...

Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam đã luôn chứng tỏ với cộng đồng quốc tế là một dân tộc có truyền thống lịch sử lâu đời về tinh thần đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau. Ngày nay, các nguyên tắc và quy định về bình đẳng và không phân biệt chủng tộc liên quan đến thành phần dân tộc không những được ghi trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các luật, văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai thực hiện trong thực tiễn, thông qua nhiều chính sách, chương trình quốc gia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm DTTS có điều kiện phát triển bình đẳng trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Cụ thể như, công dân thuộc các nhóm dân tộc thiểu số sẽ được hưởng các các chính sách ưu đãi về giáo dục, y tế, đào tạo nghề, việc làm, đất đai, nhà ở, tín dụng, hỗ trợ sản xuất... Ngoài ra, còn được hưởng các dự án đầu tư trực tiếp như xây dựng điểm tái định cư tập trung do nhà nước đầu tư toàn bộ hạ tầng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã thể hiện mạnh mẽ quyết tâm cùng với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bài ngoại và các hình thức phân biệt chủng tộc khác.

Âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch với chiêu bài kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc là rất tinh vi, thâm độc, hành động quyết liệt, trắng trợn; đối tượng đa dạng, phức tạp, mục đích không thay đổi, hậu quả khó lường. Dù những âm mưu và hành động trên đã bị phát hiện và đấu tranh ngăn chặn kịp thời nhưng các thế lực thù địch không từ bỏ, vẫn luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, các tổ chức và công dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, phát huy trách nhiệm của bản thântrong phòng tránh, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của chúng.

Các cấp ủy đảng, chính quyền thực hiện các giải pháp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, góp phần xóa bỏ đi tư tưởng kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc. Đây sẽ là “bức tường” vững chắc để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bình Nguyên - Hoàng Ly

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...