(TG) - Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng, tài năng, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sức hút, sức tác động lạ kỳ. Nếu coi bản chất của cuộc cách mạng chân chính là văn hóa, thì việc thực hành văn hóa, nâng tầm văn hóa của cả dân tộc cũng là thực hành một cuộc cách mạng to lớn và sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3/1964 |
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng ta lãnh đạo, nhân dân ta đồng sức
đồng lòng, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, làm nên một sự kiện long trời, lở đất,
thay đổi căn bản số phận của cả dân tộc và mỗi người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt sâu sắc, mạnh
mẽ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao;
xây đắp một chế độ xã hội mới mẻ, tốt tươi, đẹp đẽ ở Việt Nam; thể hiện đầy đủ,
sâu sắc và sinh động bản chất dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Thắng lợi vẻ vang đó là động lực, là mục tiêu cao cả, là niềm cảm hứng
to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta viết tiếp trang sử mới của một
thời đại mới vì niềm tự hào, tự tôn dân tộc, vì phẩm giá con người. Nhà thơ Tố
Hữu đã viết những câu thơ hào sảng, lay động: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay
cơn gió mạnh / Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời” (Huế tháng Tám); Nhà thơ
Nguyễn Đình Thi reo vui: “Mùa thu nay khác rồi / Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
/ Gió thổi rừng tre phấp phới / Trời thu thay áo mới / Trong biếc nói cười thiết
tha” (Đất nước). Trong âm nhạc, Nhạc sĩ Bùi Công Kỳ với ca khúc “Ba Đình Nắng”,
phổ thơ Vũ Hoàng Địch, đã cất lên những giai điệu tự hào, kiêu hãnh: “Gió vút lên ngọn cờ trên kỳ đài phơi phới/ Gió
vút lên đây bao nguồn sống mới dạt dào/ Tôi về đây lắng nghe bao tiếng gọi/ Của
mùa thu cách mạng, mùa vàng sao… ”.
Ngay từ những ngày đầu và nhiều năm tháng sau đó, Cách mạng Tháng Tám
và nguồn sáng tin yêu từ lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở thành niềm kiêu hãnh, sức kết
nối và lan tỏa của triệu triệu con tim, thành niềm cảm hứng lớn lao, trong trẻo,
ào ạt của cả dân tộc đang tự tin vươn về phía trước. Với tầm nhìn thời đại, tầm
vóc văn hóa, bản lĩnh chính trị, cùng với việc đề cao tinh thần đại đoàn kết
toàn dân tộc, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã rất yêu quý, tôn trọng
nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ. Và như một sự đáp đền, rất nhiều nhân sĩ, trí
thức, văn nghệ sĩ tỏ rõ sự yêu kính, ngưỡng mộ và biết ơn cách mạng, biết ơn Chủ tịch Hồ CHí Minh - hiện
thân cao cả của Đảng, của Chính phủ và chế độ mới, nhất tâm đi theo con đường
sáng mà Cách mạng Tháng Tám đã khai mở.
Để xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến kiến quốc
nhiều hy sinh, gian khổ ở phía trước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực
thi nhiều biện pháp nhằm phát hiện, tập hợp, sử dụng, trọng dụng nhân tài; giúp
đỡ thế hệ trí thức mới tiến bộ, đào tạo họ thành những những trí thức “chính
tâm và thân dân”(1). Trong bộ máy của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã mời ông Vĩnh Thuỵ (vua Bảo Đại của chế độ cũ) làm cố vấn Chính phủ, khá nhiều
bộ trưởng, thứ trưởng là nhân sĩ, trí thức đã tham chính. Cụ Hồ xác định, cùng
với chống “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc ngoại xâm, thì phải kiên quyết, nhanh
chóng củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền, thực thi quyền dân chủ của nhân
dân “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính
thức”. Chính phủ lâm thời tổ chức chu đáo, khẩn trương việc soạn thảo Hiến pháp
cùng các công việc cho Tổng tuyển cử. Bản dự án Hiến pháp được Hội đồng Chính
Phủ thảo luận, sửa đổi, bổ sung, công bố trên báo chí và gửi văn bản đến tận
các làng, xã, thôn, bản xin ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Ngày
1/1/1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời, tiếp
tục mở rộng thành phần là những người có tên tuổi, có uy tín, là nhân sĩ, trí
thức tiêu biểu như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Chu Văn Tấn,
Nguyễn Văn Tố, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng, Vũ Đình Hoè, Cù Huy Cận… và một số
thành viên khác của Việt Quốc, Việt Cách.
Trước ngày diễn ra cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ
phiếu: “Ngày mai mồng 6 tháng giêng năm 1946. Ngày mai là một ngày sẽ đưa Quốc
dân ta lên con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì
ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình…”, “Ngày mai,
quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã: Kiên quyết đoàn kết
chặt chẽ, Kiên quyết chống bọn thực dân, Kiên quyết tranh quyền độc lập”.
Qua những lần bổ sung và thông qua Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội,
trong thành phần Quốc hội, Chính phủ có thêm sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí
thức nổi tiếng như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Bùi Bằng Đoàn… Trong
bài viết “Nhân tài và Kiến quốc”, đăng báo Cứu quốc, số ra ngày 14/11/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù
chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng
thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”. Người nhấn mạnh: “Nước
nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài... E vì Chính phủ nghe
không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ mới, nhiều
trí thức, văn nghệ sĩ là người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài
đã tự nguyện rời bỏ cuộc sống nơi phồn hoa, trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến
kiến quốc đầy gian khổ, thiếu thốn, như Hoàng Minh Giám, Vũ Ðình Tụng, Tạ Quang
Bửu, Phan Anh, Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Lương Ðịnh Của,
Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát,
Phạm Ngọc Thạch, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon
Tum... và nhiều người khác.
Câu chuyện nhà khoa học trẻ Phạm Quang Lễ du học ở Pháp từ năm 1935, tốt
nghiệp kỹ sư và cử nhân tại 5 trường đại học danh tiếng của Pháp, từng làm việc
tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ Pháp, sau đó sang Đức làm việc trong
xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí của Đức. Khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh kết thúc chuyến thăm nước Pháp vào ngày 18/9/1946, Phạm Quang Lễ cùng với
ba trí thức trẻ khác là Võ Quý Huân, Trần Hữu Tước, Vũ Đình Quỳnh theo Người về
nước. Trong điều kiện rất khó khăn, thiếu thốn ở chiến khu Việt Bắc, ông đã triển
khai nghiên cứu, chế tạo vũ khí cho quân đội non trẻ của ta. Tên mới Trần Đại
Nghĩa là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho ông. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã chủ trì
nghiên cứu, tổ chức chế tạo thành công nhiều loại vũ khí đang rất cần cho bộ đội
ta, phù hợp với thực tế chiến trường và cách đánh của ta. Điển hình là súng và
đạn Bazôka để đánh xe tăng, xe bọc thép và lô cốt địch; súng không giật (SKZ) cỡ
60mm gây cho kẻ địch nhiều thất bại và nỗi kinh hoàng.
GS. Đặng Văn Ngữ giới thiệu với Bác Hồ về công việc của bộ môn Ký sinh trùng (Đại học Y – Dược) (nguồn: tiasang.com.vn). |
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đang sống và làm việc tại Nhật Bản đã nghe theo tiếng
gọi của Tổ quốc, trở về nước với tài sản quý nhất là các giống nấm kháng sinh để
chế tạo thuốc penicillin và streptomycin đang rất cần cho bộ đội và nhân dân ta
trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp và sau này là đế quốc Mỹ. Năm 1955,
ông sáng lập và làm Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng và côn trùng Việt
Nam, tập trung nghiên cứu phòng chống và điều trị căn bệnh sốt rét tại Việt
Nam. Năm 1967, ông hy sinh ở chiến trường miền Nam khi đang tập trung nghiên cứu
việc phòng chống căn bệnh sốt rét.
Nhà nông học Lương Định Của sinh ra ở Sóc Trăng, lên Sài Gòn học xong
tú tài, năm 1937, ông sang Hồng Kông học Đại học Y Khoa sau đó sang Thượng Hải,
Trung Quốc học Đại học Kinh tế. Đến 1940, trường này đóng cửa do chiến tranh,
Lương Định Của sang Nhật, thi vào Đại học Quốc lập Kyushu, khoa Sinh vật thực
nghiệm. Năm 1946, ông lên Kyoto tiếp tục theo học ngành nông nghiệp, bảo vệ
thành công luận án tiến sĩ nông học chuyên ngành di truyền chọn giống. Ông còn
được nhận Bằng khen của Viện Nghiên cứu sinh học Kihata cho công trình “Sự sinh
sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”. Những nghiên cứu
và sáng tạo khoa học của ông được giới chuyên môn quốc tế đánh giá rất cao, coi
ông là một trong những nhà nông học hàng đầu của thế giới lúc đó. Đang ở đỉnh
cao vinh quang, Lương Định Của quyết định đưa gia đình về nước, vợ ông là bà
Nubuko Nakamura, người Nhật Bản. Ông làm việc ở Viện Khảo cứu Bộ Canh nông (Sài
Gòn) mấy năm, đến năm 1954, ông cùng gia đình tập kết ra Bắc, làm việc tại Viện
Khảo cứu Nông lâm, trường Đại học Nông nghiệp, Viện Cây lương thực và thực phẩm,
còn vợ ông - bà Nubuko Nakamura làm phát thanh viên tiếng Nhật tại Đài Tiếng
nói Việt Nam. Lương Định Của đã lai tạo thành công nhiều giống lúa, giống cây,
giống rau cho năng suất cao, chất lượng tốt, đào tạo nhiều cán bộ khoa học hàng
đầu cho ngành nông nghiệp nước nhà.
Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng, tài năng, phong cách của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có sức hút, sức tác động lạ kỳ. Nếu coi bản chất của cuộc cách mạng
chân chính là văn hóa, thì việc thực hành văn hóa, nâng tầm văn hóa của cả dân
tộc cũng là thực hành một cuộc cách mạng to lớn và sâu sắc. Đường lối văn hoá
kháng chiến “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa” của Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện đầy đủ trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”
ra ngày 25/11/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng; được sáng tỏ, nhấn mạnh
trong bức thư “Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng
nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
16/11/1946. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (11/1946), Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào,
của dân tộc làm cơ sở”. Người chỉ rõ “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt,
ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật
có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”. Người nhấn mạnh:
“Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu
trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do, độc lập làm gốc.
Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”… “Số
phận dân ta là ở trong tay ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”.
“Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ…”. (Hồ Chí Minh)
Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa (năm 1951) ở chiến
khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người đề cao vai trò xung
kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Văn
hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt
trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. “Văn hóa
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong
kinh tế và chính trị”; “chính trị, kinh tế, văn hóa đều “phải coi là quan trọng
ngang nhau”.
Cũng như giới nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, đội ngũ những người làm
công tác văn hóa, văn nghệ thế hệ Cách mạng Tháng Tám cũng ngập tràn niềm vui
và hạnh phúc trước sự đổi vận, đổi đời của dân tộc, của nhân dân mình. “Nước cũ
bốn nghìn năm / Theo cờ mới, trẻ như hai mươi tuổi”( Ngọn quốc kì - Xuân Diệu),
“Có mối tình nào hơn thế nữa?/ Ăn sâu lòng đất thấm lòng người/ Đượm lều tranh,
thơm dậy ngàn khơi/ Khi vui non nước cùng cười/ Khi căm non nước với người đứng
lên!” (Tình sông núi - Trần Mai Ninh…). Từ đây, đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc nhiều
loại hình văn học, nghệ thuật cùng dân tộc đi vào cuộc kháng chiến thần thánh
chống xâm lược Pháp. Họ đồng cam cộng khổ, gắn bó bền chặt với đời sống công,
nông, binh; khám phá, ngợi ca và góp phần nhân lên niềm tin, sức mạnh, ý chí
quyết chiến và quyết thắng của cả dân tộc. Những tên tuổi tiêu biểu được khẳng
định và tiếp tục có những sáng tạo mới, thành công mới. Về văn học là các nhà
văn, nhà thơ Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Trần Đăng,
Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Hoài Thanh, Thôi Hữu, Hoàng
Trung Thông, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Võ Huy Tâm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân,
Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nông Quốc Chấn, Hồ Phương, Hoàng Cầm, Quang
Dũng, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nguyễn Xuân Sanh, Trần Huyền Trân,
Lưu Trọng Lư, Anh Thơ, Vũ Tú Nam, Bùi Hiển, Nguyễn Văn Bổng, Kim Lân, Trần Hữu
Thung, Tế Hanh, Nguyễn Khải, Giang Nam, Hữu Loan, Bàn Tài Đoàn, Tú Mỡ… Về sân
khấu có các nhà biên kịch, đạo diễn như Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Huy Tưởng,
Lưu Quang Thuận, Ngô Tất Tố, Vũ Lăng ... Về âm nhạc, có các nhạc sỹ Văn Cao, Đinh Nhu, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước,
Nguyễn Xuân Khoát, Xuân Oanh, Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Đình
Phúc, Nguyễn Đình Thi, Lương Ngọc Trác, Hoàng Việt, Lê Yên, Phan Huỳnh Điểu… Về
mỹ thuật có các họa sỹ Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Đỗ
Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Lưu Hậu,
Diệp Minh Châu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Lê Lam, Nguyễn Thị Kim, Lương Xuân
Nhị…Về điện ảnh, nhiếp ảnh, trong hoàn cảnh rất thiếu thốn về máy móc, phương
tiện, vật liệu, các nghệ sỹ của ta như Nguyễn Bá Khoản, Võ An Ninh, Mai Lộc,
Phan Nghiêm, Vũ Năng An, Nguyễn Hồng Nghi, Nguyễn Thế Đoàn, Khương Mễ, Pham Văn
Khoa đã chụp và quay được những bức ảnh, những đoạn phim tài liệu rất quý về
Ngày Độc lập 2/9/1945, về nạn đói năm Ất Daauh 1945, sự kiện lịch sử Chủ tịch Hồ
Chí Minh từ Pháp trở về (1946), Pháp tấn công phố Hàng Than và Trận đánh tại Ô
Cầu Dền (1946), Trận đánh đồn Mộc Hóa của Tiểu đoàn 307 (1948), Chiến dịch Biên giới ở Đông Khê (1950)… Trong số các nhà văn, nghệ sỹ thời kháng chiến
chống Pháp, có những người đã hy sinh
anh dũng như Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu, Tô Ngọc Vân.
Đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng, nhiều thế
hệ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiếp tục trở thành người chiến sĩ trong
các cuộc trường chinh đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đánh thắng bè
lúc bành trướng xâm lược và diệt chủng ở hai đầu đất nước, đưa đất nước vững bước
trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng nhiều hội
đoàn, tổ chức làm công tác văn hóa, văn nghệ, khoa học, kỹ thuật; các trí thức,
văn nghệ sỹ Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập,
Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sỹ Nhân dân, Nghệ
sỹ Ưu tú và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Đến nay, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục tăng.
Các nhà khoa học đang đi đầu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh; hai năm qua là cuộc chiến phòng, chống đại dịch COVID-19,
nghiên cứu phát triển bộ kit xét nghiệm, phần mềm ứng dụng khai báo y tế, truy
vết người nghi nhiễm, khám chữa bệnh từ xa, điều chế vaccine và thuốc điều trị
COVID-19.
Đảng, Nhà ước khẳng định quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là nguồn sức mạnh nội sinh, là động lực to lớn để phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc; chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội; con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm
trong mọi chiến lược phát triển đất nước; khâu đột phá đầu tiên và rất quan trọng
là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực có chất lượng cao, trong đó, tầng lớp trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ
là đội ngũ tài năng của dân tộc, từ đó góp phần nâng tầm trí tuệ, tầm văn hóa của
dân tộc, sức mạnh nổi trội của đất nước./.
PGS. TS. Nhà văn NGUYỄN THẾ KỶ
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương
___________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011,
t.10, tr.376 - 378.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét