Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát
triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm,
nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của
quốc gia.
Ở nước ta, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhanh chóng nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến hành
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giành độc lập cho dân tộc, xây dựng
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1. Những tư tưởng cơ bản
của nhà nước pháp quyền đã được V.I.Lênin đề cập và vận dụng vào thực tiễn xây
dựng và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới-nhà
nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bao gồm các vấn đề
cơ bản như: Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, dân chủ; nhà nước có một
hệ thống pháp luật đầy đủ và pháp luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; nhà nước là công cụ của nhân dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là quá
trình đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhà nước pháp
quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà
nước kiểu mới ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011)
thông qua tại Đại hội XI của Đảng, đã xác định: “Nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(1).
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã
khẳng định yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng như
một xu thế khách quan, tất yếu mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền dân chủ chân chính của nhân dân,
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc
tế.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Ảnh: Trọng Hải
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo là nguyên tắc hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, bảo
đảm thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở các khía cạnh: Đảng đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân
thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; Đảng lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ
máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ
chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát
huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân
trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo
vệ Nhà nước.
2. Thời gian qua, các thế lực thù địch,
cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội, họ rêu rao rằng, ở Việt
Nam không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các
lực lượng chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước XHCN ở Liên Xô và các nước
Đông Âu thập niên 80 của thế kỷ trước. Hiện nay, một số đối tượng vẫn cổ xúy
cho thủ đoạn trên mà nếu không đấu tranh thì có thể để lại những hậu quả khôn
lường đối với đất nước, đối với xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo
của Đảng bị đặt ngoài Hiến pháp.
Những người có lương tri trên thế giới không
thể không nhớ đến sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã năm 1991, khi mà những
người dân chủ cấp tiến hả hê vì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã bị đặt
ngoài hiến pháp, khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm
1988) bị phá bỏ. Trên đất nước đó, sau những biến cố thăng trầm, chính Tổng
thống Liên bang Nga Vladimir Putin trong cuộc gặp các đảng phái chính trị của
Nga tại Điện Kremlin ngày 23-9-2016, cho rằng sự kiện Liên Xô sụp đổ không chỉ
là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 mà rất có thể là cả trong
lịch sử chính trị thế giới, để lại những hậu quả có tính toàn cầu về tư tưởng,
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh.
3. Đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước
pháp quyền là quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong từng nước, khi giải
quyết các vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước thì xuất phát từ đặc điểm thực
tiễn riêng của mỗi nhà nước. Ở một số nhà nước trên thế giới, do xuất phát từ
thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử hình thành, có nhà nước theo nguyên tắc
“tam quyền phân lập”, tức là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
với những hình thức và mức độ khác nhau. Về bản chất, dưới khoa học chính trị
học, đây thực chất là sự phân chia quyền lực giữa các đảng phái. Tuy vậy, trên
thực tế cũng chưa có một nước tư bản nào thực hiện đúng nguyên tắc tam quyền
phân lập, mà vẫn phải áp dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình của mỗi nước.
Trước đây, khi thảo luận vấn đề cải cách tổ
chức và hoạt động của nhà nước ở nước ta, từng có ý kiến cho rằng cần phải xây
dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Tuy nhiên, Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền
lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục khẳng định vấn đề trên.
Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức
quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với các nhà nước tư sản, đó là:
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân
lập mà tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”,
không thể phân quyền theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các
quyền, mà chỉ có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao
nhất ở Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Mô hình xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền ở
nước ta chưa khi nào và không bao giờ bị coi là bản sao mô hình bộ máy nhà nước
pháp quyền giống như một quốc gia nào đó. Các nhà tư tưởng chính trị-pháp lý như
Aristoteles đã từng chỉ ra rằng, cần phải làm ra các đạo luật để áp dụng vào
điều kiện cụ thể của từng quốc gia chứ không thể đem các quốc gia vào cho phù
hợp với pháp luật đã có sẵn. Trong tác phẩm “Tinh thần của pháp luật”,
Montesquieu cũng đã nhắc đến yêu cầu “lấy tinh thần của luật”, từ "tinh
thần của nhân dân". “Các đạo luật phải nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với
các đặc điểm của dân tộc mà vì dân tộc đó mới cần làm ra những đạo luật này. Và
chỉ trong những trường hợp rất đặc biệt luật của dân tộc này mới có thể thích
ứng được với dân tộc khác”(3).
Mô hình nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được
xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng về việc vận dụng một cách sáng tạo
và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức
nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hòa
với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển
đất nước. Do đó, mọi yêu cầu, đòi hỏi hay kiến nghị Việt Nam phải thực hiện mô
hình “tam quyền phân lập” là không phù hợp, thậm chí tiếp tay cho các thế lực
thù địch, phản động thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan
trọng, nhưng cũng không kém phần phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng
quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích
đã đề ra, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình
nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ như
tham nhũng, lãng phí, lạm quyền... Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong quản lý nhà nước trên thế giới nói
chung, ở nước ta nói riêng. Ở nước ta, thuật ngữ “kiểm soát” được ghi trong văn
kiện của Đảng và thể chế hóa quan điểm đó, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 hiến
định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”.
Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bắt
nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta không cần
phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập, bởi các nhánh quyền lực của Nhà nước ta
không phải nhánh quyền lực của phe nhóm này chống lại phe nhóm kia, vốn là gốc
rễ của cơ chế tam quyền phân lập.
Sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong những năm qua là minh chứng sinh động về
Nhà nước ta đã, đang thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; do nhân dân xây
dựng; hoạt động vì mục tiêu ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Thực tế này
sẽ phủ nhận những ý đồ đen tối muốn thay đổi thể chế nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam bằng mô hình nhà nước “tam quyền phân lập” mà thực chất là muốn xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, tách rời Nhà nước
với chính trị rồi làm suy yếu, tan rã Nhà nước.
Đại tá, TS NGUYỄN HỮU PHÚC, Chủ nhiệm
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị
-----------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.85-86.
(2) Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr.131-132.
(3) Montesquieu, Tinh thần của
pháp luật (bản dịch của Trần Thanh Đạm), NXB TP Hồ Chí Minh,
2002, tr.39
x
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét