[QĐND] Lợi dụng việc toàn dân đang đóng góp ý kiến cho dự án Luật Đất đai (sửa đổi), các thế lực xấu từ bên ngoài đã tăng cường chống phá.
Họ đưa ra các quan điểm phủ nhận sạch trơn giá trị của việc đất đai thuộc
sở hữu toàn dân và xuyên tạc rằng quy định như vậy để tạo điều kiện cho
"chính quyền cướp đất của dân", là trở lực cho phát triển kinh tế. Họ
cho rằng để chống tham nhũng, tiêu cực, để thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam
phải thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai hoặc thừa nhận chế độ đa sở hữu đất
đai. Có thể thấy, việc đồng nhất vấn đề sở hữu toàn dân về đất đai với thực
trạng tham nhũng, tiêu cực có liên quan tới đất đai là sự đánh tráo giá trị,
không đúng bản chất của vấn đề, chỉ lừa phỉnh được những người thiếu hiểu biết
về vấn đề này.
Tại sao phải thực hiện
sở hữu toàn dân về đất đai?
Trước hết cần khẳng định rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân không phải là một thuật ngữ lý thuyết, trừu tượng, không có giá trị thực thi, không phải là sự giáo điều được du nhập từ Liên Xô vào Việt Nam như một số ý kiến trên các trang mạng, các diễn đàn đã cố ý bóp méo, gây hiểu lầm. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân thể hiện đúng bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 dựa trên cơ sở lý luận về tính tất yếu khách quan của việc xã hội hóa đất đai. Từ đó tới nay, qua một số lần sửa đổi Hiến pháp và sửa đổi Luật Đất đai, Đảng ta luôn kiên định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý và sử dụng hiệu quả. Quan điểm này được Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật qua nhiều thời kỳ. Hiến pháp 2013 và Luật Đất đai 2013 đều quy định rõ vấn đề này. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về quản lý sử dụng đất và dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được đưa ra lấy ý kiến toàn dân cũng một lần nữa khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã góp phần quan trọng duy trì ổn định chính trị-xã hội (CT-XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, bảo đảm sinh kế cho người nông dân. Thực tế đã cho thấy, quan điểm trên là đúng đắn, phù hợp với chế độ CT-XH, đặc điểm văn hóa, lịch sử và điều kiện tự nhiên của nước ta. Đó là vì:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm của Nhà nước ta là "tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân", thì nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc gia là đất đai. Ðất đai là thành quả
của sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài của cả dân tộc, là thành quả từ
công sức, xương máu của bao thế hệ, không thể để cho một số người nào đó có
quyền độc chiếm sở hữu. Ðất đai của quốc gia dân tộc phải thuộc sở hữu chung
của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của
nhân dân.
Thứ hai, sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện để những người lao động
tiếp cận đất đai tự do. Phải tạo cơ chế công bằng ngay từ gốc, tức là người lao
động phải có tư liệu sản xuất, trong đó có đất đai, để lao động mưu sinh.
Thứ ba, trong điều kiện nước ta, việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân về
đất đai là một yếu tố cản trở đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH). Bởi
vì, trong chế độ sở hữu tư nhân đất đai, không ai có quyền ngăn cản người chủ
đất sử dụng đất theo ý họ, vì đất là tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến
đất đai có xu hướng được sử dụng không hiệu quả, chỉ bảo vệ lợi ích của chủ đất
mà không quan tâm tới lợi ích sinh tồn của phần lớn dân cư, khi cần xây dựng
những công trình công cộng thì sở hữu tư nhân về đất đai sẽ gây ra những trở
lực lớn. Sở hữu tư nhân đất đai còn dẫn đến kết quả không mong muốn là tập
trung đất đai trong tay một số người có nhiều tiền, hệ quả là có người sở hữu
quá nhiều đất, người lại không có tấc đất cắm dùi. Điều này sẽ gây bất ổn xã
hội. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp, khi
phần lớn công dân bị bất lợi trong phân chia lợi ích từ đất đai, thì Nhà nước
có thể sửa Luật Ðất đai phục vụ mục đích chung của công dân, sửa chữa những mất
công bằng trong phân phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu
Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ
phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ không cho phép phần lớn còn lại thay
đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.
Ảnh minh họa: TTXVN |
Thứ tư, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tránh cho xã hội Việt Nam rơi
vào tình trạng bất ổn do một số người có thể đòi hỏi xem xét lại các quyết định
lịch sử về đất đai. Nếu thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai hoặc đa sở hữu về đất
đai, sẽ diễn ra các cuộc tranh chấp đòi lại quyền sở hữu nhà, đất trong quá khứ
mà không cần tính đến các yếu tố lịch sử và hiện trạng, như vậy xã hội dễ lâm
vào tình trạng bất ổn.
Thứ năm, nếu thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai và cho phép người nước
ngoài thỏa thuận mua bán đất với tư nhân thì nguy cơ mất chủ quyền lãnh thổ từ
hệ lụy của nền kinh tế thị trường sẽ thành hiện thực. Đã có nhiều bài học nhãn
tiền của một số nước trên thế giới về vấn đề này...
Quyền của người dân
đối với đất đai được tôn trọng
Cũng có những ý kiến sai trái cho rằng sở hữu toàn dân về đất đai khiến
đất đai trở thành vô chủ, không được sử dụng hiệu quả và không thể trở thành
vốn. Thực tế thì Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đã
trao cho người sử dụng đất khá nhiều quyền: Sử dụng (theo quy hoạch của Nhà
nước), chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, thừa kế, góp vốn... Về cơ bản, người sử
dụng đất ở Việt Nam đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử
dụng đất hiệu quả theo năng lực của họ. Một số hạn chế của quyền chủ sở hữu mà
người sử dụng đất không có là: Không được tùy ý chuyển mục đích sử dụng đất;
hạn điền; thời gian giao đất hữu hạn; phải giao lại đất cho Nhà nước để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, mục đích công cộng. Tương ứng với mở rộng
quyền cho người sử dụng đất, quyền của cơ quan nhà nước với tư cách đại diện
cho toàn dân thống nhất quản lý đất đai trong cả nước được quy định trên các
mặt sau: Quy định mục đích sử dụng cho từng thửa đất (bằng quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất); thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định
giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải
do người sử dụng đất tạo ra.
Người sử dụng đất giữ lại cho mình hầu hết quyền của người sở hữu như
chiếm giữ, sử dụng, giao dịch trên thị trường đất đai, thế chấp và thừa kế.
Người dân chỉ giao lại cho Nhà nước một số quyền như: Quyền xây dựng quy hoạch,
kế hoạch tổng thể sử dụng đất đai để cho hoạt động sử dụng đất đai của từng cá
nhân và tổ chức không làm giảm hiệu quả sử dụng đất đai chung của quốc gia. Nhà
nước phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch và giám sát tuân thủ
quy hoạch, kế hoạch cho tốt. Quyền bảo vệ đất đai và môi trường để ngăn cản
những hành vi vụ lợi cá nhân của người dân làm tổn hại lợi ích chung. Quyền bảo
hộ quyền chính đáng của dân cư đối với đất đai đã được quy định theo luật.
Quyền bảo toàn lãnh thổ quốc gia trước các hành vi xâm phạm của nước ngoài.
Người dân phải cung cấp tài chính qua thuế sử dụng đất cho Nhà nước để duy trì
các hoạt động của mình.
So sánh với luật đất đai của một số nước duy trì tư hữu về đất đai, quyền
của người sử dụng đất của Việt Nam cũng không có chênh lệch đáng kể. Như vậy,
không có sự khác biệt lớn về phương diện tạo quyền tự chủ cho người sản xuất,
kinh doanh sử dụng đất hiệu quả giữa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước
ta và chế độ tư hữu đất đai ở một số nước.
Sở hữu toàn dân về đất
đai không phải là nguyên nhân của tham nhũng, tiêu cực
Về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguồn gốc của nạn
tham nhũng, tiêu cực và thực tế phức tạp hiện nay về đất đai. Thực trạng quản
lý, sử dụng đất đai đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết bắt nguồn không
phải từ bản chất vốn có của sở hữu toàn dân về đất đai, mà bắt nguồn từ sự yếu
kém kéo dài trong việc không hiện thực hóa thiết chế thực hiện chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai; bắt nguồn từ hệ lụy yếu kém trong quản lý đất đai.
Luật Đất đai năm 2013 và phương thức Nhà nước thực hiện luật nói trên có
nhiều điểm chưa hợp lý cần phải khắc phục. Vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay ở
nước ta là ở chất lượng, thái độ thực thi Luật Đất đai của cơ quan và công chức
nhà nước chưa tốt, tồn tại quá nhiều trường hợp lạm dụng quyền lực công phục vụ
cho mục tiêu riêng của cá nhân, của gia đình, của nhóm lợi ích. Một số trường hợp
cơ quan nhà nước thu hồi đất của dân không đúng quy định của pháp luật. Sự giàu
có bất thường của không ít đại gia kinh doanh bất động sản ở nước ta thời gian
qua có tác động từ mức chênh lệch giá quá lớn trong các dự án chuyển đổi đất
nông nghiệp thành đất đô thị và giá đất đền bù cho người có quyền sử dụng đất
hợp pháp. Tình trạng quy hoạch bị điều chỉnh tùy tiện, quy hoạch treo, tình
trạng đất thu hồi bị bỏ hoang còn người mất đất lâm vào tình trạng thất nghiệp,
khó khăn... cho thấy quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu cần phải
có trong chế độ sở hữu toàn dân.
Những vấn đề này không thể giải quyết bằng cách chuyển toàn bộ quyền quản
lý đó cho khu vực tư nhân thông qua tư hữu hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu đất đai.
Vì làm như vậy thì chỉ khiến tình hình thêm phức tạp, những rủi ro khó lường
hết hậu quả. Ngược lại, chỉ có thể giải quyết tốt các vấn đề này bằng việc đẩy
mạnh cải cách trong các cơ quan nhà nước, minh bạch hóa, công khai hóa cơ chế
quản lý, sử dụng đất đai; siết chặt kỷ luật và trách nhiệm giải trình của công
chức và chuyển giao cho người dân những quyền mà người sử dụng đất thực thi có
lợi hơn cơ quan nhà nước.
Để hạn chế tình trạng thu hồi đất một cách tùy tiện ảnh hưởng tới lợi ích
của người sử dụng đất, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII đã định hướng quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục
đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất
để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tiếp tục thực hiện cơ chế
tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng
đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại.
Đồng thời, có lẽ cần nghiên cứu phân chia địa tô chênh lệch giữa xã hội
(mà Nhà nước là đại diện), người có đất bị thu hồi và người nhận đất sử dụng
cho mục đích mới trong giá đất thu hồi. Nhà nước cũng phải nâng cao năng lực sử
dụng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với tư cách công cụ quản lý vì lợi ích
quốc gia. Thực hiện được tốt những định hướng trên sẽ hạn chế được tác động
tiêu cực của các nhóm lợi ích vào lĩnh vực đất đai.
Sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện để Nhà nước XHCN bảo vệ lợi ích
của người dân tốt nhất. Những sai lầm và thiếu sót của cơ quan nhà nước thời
gian qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nước XHCN và có
thể sửa chữa được. Vì thế, cần tỉnh táo nhận thức rõ mưu đồ của kẻ xấu xuyên
tạc chính sách đất đai của Đảng, Nhà nước ta hòng kích động, gây bất ổn môi
trường CT-XH của nước ta. Từ đó, các cơ quan, bộ, ngành, đơn vị, địa phương cần
vận động nhân dân tích cực đóng góp ý kiến chất lượng, hiệu quả cho dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi), kịp thời nhận diện, đấu tranh với các luồng ý kiến sai
trái.
MINH NGỌC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét