Phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Từ tư duy phải xóa bỏ KTTN, đến nay Đảng ta khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đây là chủ trương khoa học, đúng đắn với thực tiễn vận động của các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), mang lại
thành tựu đột phá cho phát triển kinh tế đất nước, góp phần bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn luôn đưa ra những luận điệu chống
phá, xuyên tạc, bóp méo chủ trương phát triển KTTN, trong đó có luận điệu rất
thâm độc: Phát triển KTTN là từ bỏ mục tiêu CNXH. Bằng lý luận và thực tiễn,
chúng ta khẳng định: Luận điệu trên là hoàn toàn sai trái.
Bài 1: Một động lực quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), xây dựng
cơ sở vật chất cho CNXH, Đảng ta chủ trương đột phá phát triển KTTN, coi nó là
một động lực quan trọng của nền kinh tế. Ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5
khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển KTTN trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Nghị quyết đánh giá cao vai trò, sự đóng góp to lớn của KTTN về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy
tăng năng suất lao động, tỷ trọng đóng góp vào GDP, quy mô doanh nghiệp, trách
nhiệm xã hội... Đồng thời xác định rõ quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải
pháp phát triển KTTN đến năm 2030.
Phát triển kinh tế tư nhân để rút ngắn thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội
Phát triển KTTN là sự phát triển tư duy lý luận về sử dụng các thành phần
kinh tế cho mục đích xây dựng CNXH. Tuy nhiên, các thế lực thù địch thường cố
tình chống phá, xuyên tạc gây hoang mang, hoài nghi về chủ trương đúng đắn này
của Đảng ta.
Một luồng quan điểm chống phá khá phổ biến cho rằng: Đảng Cộng sản Việt
Nam coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế là thừa nhận bóc lột,
thừa nhận quan hệ sản xuất (QHSX) tư bản chủ nghĩa (TBCN), là từ bỏ mục tiêu
CNXH. Cũng vì bị ảnh hưởng của những luận điệu chống phá đó, do chưa hiểu bản
chất của vấn đề mà có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoài nghi tính
đúng đắn của chủ trương này, dẫn tới hoài nghi con đường đi lên CNXH.
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn |
Vậy thừa nhận và tạo điều kiện cho KTTN phát triển có phải là Đảng ta
đã từ bỏ mục tiêu CNXH? Đây là vấn đề lớn cả về lý luận và thực tiễn cần được
luận giải khoa học, thuyết phục.
Dựa trên lý luận kinh tế của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng
CNXH ở Việt Nam, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để khẳng định rằng chủ trương
phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH, mà ngược lại là sử dụng
chính nó để rút ngắn hơn chặng đường ở thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên CNXH. Điều
đó được luận giải trên các vấn đề sau đây:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra trong TKQĐ cần thiết phải sử dụng các
thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Về xây dựng QHSX trong
TKQĐ lên CNXH, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà
phải qua con đường gián tiếp, không thể quá vội vàng, thẳng tuột, không được
chuẩn bị”(1). V.I.Lênin chỉ rõ cần xây dựng QHSX mới thông qua con đường gián
tiếp là CNTB nhà nước: “Việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải
có những bước quá độ như CNTB nhà nước”(2).
Bước quá độ thông qua CNTB nhà nước thể hiện trong chính sách kinh tế mới,
trong đó, cần thiết phải có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm
phát triển LLSX, từng bước xã hội hóa sản xuất trên thực tế. V.I.Lênin chỉ ra một
số hình thức CNTB nhà nước như: Tô nhượng, đại lý, cho thuê xí nghiệp, khu mỏ....(3).
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết,
V.I.Lênin cũng đã chỉ dẫn rằng trong TKQĐ cần phải sử dụng cả thành phần kinh tế
phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển LLSX.
V.I.Lênin coi đó là biện pháp tối ưu để khơi dậy động lực, giải phóng sức sản
xuất, tăng năng suất lao động, nhờ đó giải quyết được khó khăn kinh tế sau chiến
tranh, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
Đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường nước ta được xác định là nền
kinh tế có “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Các thành phần
kinh tế bình đẳng trước pháp luật, được xác định là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quá độ lên CNXH là một sự
nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp... Việt Nam đi lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, LLSX rất thấp, lại trải qua mấy chục
năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế-xã hội
đan xen nhau”(4).
Thực tiễn cũng cho thấy việc áp đặt QHSX vượt trước rất xa so với trình
độ của LLSX còn lạc hậu đã trở thành lực cản. Động lực của sản xuất không được
phát huy, sức sản xuất không được khơi dậy, điều đó dẫn tới sự trì trệ không chỉ
đối với LLSX mà còn làm méo mó đi mục đích hoàn thiện QHSX. Khi KTTN còn dư địa
phát triển trong TKQĐ mà nôn nóng xóa bỏ là một sai lầm cả về lý luận và thực
tiễn. Điều cần làm là phải tạo cơ chế cho KTTN phát triển, hay nói cách khác là
khơi dậy, phát huy, sử dụng nó cho mục đích hiện đại hóa LLSX, xây dựng cơ sở vật
chất cho CNXH.
Không xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
Việt Nam thừa nhận KTTN không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của
QHSX TBCN. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo
điều kiện cho bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Mục
tiêu nhất quán của cách mạng nước ta là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng
một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5).
Thực tiễn đã chứng minh bản chất của chế độ TBCN dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê không thể là cái đích
để chúng ta thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong TKQĐ chúng ta
thừa nhận KTTN vẫn còn cơ sở để tồn tại.
Do vậy, chúng ta không thể không tạo điều kiện cho nó phát triển. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta chủ trương xác lập vị trí thống trị của
QHSX TBCN. Ngược lại, cần hướng nó đi theo mục đích CNXH, điều đó cũng có nghĩa
không phải chúng ta để quan hệ bóc lột tự do phát triển.
KTTN được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Do vậy, QHSX hình thành trong thành phần KTTN sẽ chịu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý, điều tiết của Nhà nước pháp quyền
XHCN nhằm giữ vững định hướng XHCN.
Coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế không đồng nghĩa từ
bỏ vai trò là công cụ, là lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, dẫn dắt
của kinh tế nhà nước. Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ sự phát triển của từng
thành phần kinh tế ở nước ta, trong đó chỉ rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển;
KTTN là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển”(6).
Vai trò của từng thành phần kinh tế theo đó cũng được xác lập theo đúng vị trí đã xác định. Thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm. Trong đó cũng khuyến khích sự hợp tác liên kết với doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ, ngoài ra còn khuyến khích phát triển các công
ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của người lao động.
Như vậy, KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế, song động lực
đó được phát huy trong chế độ kinh tế-xã hội khác biệt về chất với chế độ TBCN.
Trong chế độ kinh tế XHCN, thành phần KTTN cũng không còn thuần túy như trong
chế độ TBCN mà có sự đan xen, giao thoa, liên kết, hợp tác với các thành phần
kinh tế XHCN.
KTTN được quan tâm tạo điều kiện phát triển không đồng nghĩa với từ bỏ
mục tiêu CNXH. Là người lãnh đạo xây dựng nền kinh tế XHCN ở Nga sau Cách mạng
Tháng Mười, V.I.Lênin đề xuất chính sách kinh tế mới (NEP). Về bản chất, đó
chính là nhận thức rõ và đề xuất lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần trong
TKQĐ từ một nước tiểu nông.
Trong chính sách này, V.I.Lênin kỳ vọng vào khả năng thu hút đầu tư từ
các nước tư bản phát triển và từ tư bản tư nhân trong nước cho lĩnh vực công
nghiệp non yếu và kiệt quệ sau chiến tranh. Hơn ai hết, V.I.Lênin nhận thức rất
rõ chính sách kinh tế mới về hình thức dường như có bước lùi về CNTB nhưng lại
rất cần thiết để tiến bước lên CNXH. V.I.Lênin đã luận chứng rằng sự đồng thuận
của nhân dân và sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của nhà nước XHCN sẽ khiến tư bản
tư nhân không thể lái nền kinh tế trở về quỹ đạo của CNTB.
KTTN ở Việt Nam thời gian qua đã phát triển cả về quy mô, trình độ,
lĩnh vực ngành nghề trong khuôn khổ định hướng XHCN, vì mục tiêu CNXH mà không
phải là phát triển tự do như trong thể chế kinh tế TBCN. Điều đó cũng có nghĩa
tạo điều kiện cho KTTN phát triển nhưng phải tuân thủ và vận động theo quỹ đạo
của CNXH mà không phải là buông bỏ mục tiêu CNXH.
(còn nữa)
Thượng tá, TS PHÙNG MẠNH CƯỜNG, Khoa Kinh tế Chính trị học Mác-Lênin (Học
viện Chính trị)
--------------------------------------------------------------------------
(1)V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2005, t.43, tr.445.
(2)V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, t.44, tr. 189.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2005, t.43,
tr.270-274.
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hà Nội
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.128.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.129
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét