(TG) - Để thực hiện có hiệu quả và thực chất chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; một trong những vấn đề mang tính căn cốt là phải xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó nền tảng, tạo sức mạnh nội sinh để mỗi cán bộ, đảng viên đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực, những thói hư tật xấu, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là người lãnh đạo trung thành và tận tụy của nhân dân.
NHỮNG CHUẨN MỰC CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ được coi là những điều quy định
làm căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách của người đảng viên, để xem người
đó có xứng đáng là thành viên trong đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công
nhân, xứng đáng đảm nhận trọng trách với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân
dân giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng, những nhà tư
tưởng quan tâm và bàn luận nhiều nhất vấn đề đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách
mạng. Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện, các lĩnh vực hoạt động của đời sống,
trong các mối quan hệ và bản chất của con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên chuẩn mực,
những giá trị chung nhất, cơ bản nhất mang tính phổ quát của nền đạo đức mới -
đạo đức cách mạng.
Người khái quát nội hàm đạo đức cách mạng là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ
vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(1); “Tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”(2). Người nêu bật những phẩm chất của
người cách mạng cần được bồi đắp là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm và khẳng định:
“Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(3). Như vậy, chuẩn mực đạo đức
cách mạng theo Hồ Chí Minh không nằm ngoài những yêu cầu trong các chuẩn mực,
hành vi đạo đức thông thường, mà là sự đòi hỏi cao hơn, trách nhiệm hơn đối với
cái chung và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng.
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, người đảng viên chịu không
ít những tác động tiêu cực, trong đó tác động trực tiếp và mạnh nhất đối với
cán bộ, đảng viên chính là mặt trái của quyền lực, mặt trái của kinh tế thị trường,
của hội nhập quốc tế.Cần đặc biệt lưu ý là mặt trái của quyền lực kết hợp với mặt
trái của kinh tế thị trường, đã tạo thành một sự cộng hưởng gây nên những tiêu
cực, suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên hết sức nghiêm trọng. Tình
hình đó đòi hỏi chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cần có sự phát triển phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Văn kiện
XIII của Đảng nêu yêu cầu phải “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo
đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều
kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(4).
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC TIÊU BIỂU CỦA MỖI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Để thực hiện có hiệu quả và thực chất chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; một trong những vấn đề mang tính căn cốt là phải xây dựng chuẩn mực
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy
đó nền tảng, tạo sức mạnh nội sinh để mỗi cán bộ, đảng viên đấu tranh chống ảnh
hưởng tiêu cực, những thói hư tật xấu, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là
người lãnh đạo trung thành và tận tụy của nhân dân. Có thể đề xuất một số phẩm
chất đạo đức tiêu biểu của mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay như sau:
Thứ nhất, bản lĩnh chính trị.
Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là thành viên của một đảng
cầm quyền, đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Sứ mệnh đó đòi hỏi Đảng và
mỗi đảng viên phải rất vững vàng, độc lập, sáng tạo trong việc đề ra và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách cũng như xây dựng nội bộ Đảng đoàn
kết, vững mạnh; không dao động trước khó khăn, thử thách.Bởi vậy, bản lĩnh
chính trị là phẩm chất chính trị tuyệt đối cần thiết đối với Đảng Cộng sản cũng
như đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở nhiều phương diện,
trong đó nổi bật là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của cách mạng xã hội chủ
nghĩa; sự trung thành với Tổ quốc, Đảng; sự vững vàng trước mọi tình huống, sự
quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi
ích của Đảng, của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Hồ Chí Minh căn dặn mỗi đảng
viên “phải giữ chủ nghĩa cho vững”(5), "Những người cộng sản chúng ta
không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc
hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và
trên toàn thế giới"(6). Kiên định mục tiêu, lý tưởng, tức là vô luận lúc
nào, vô luận việc gì, cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc
ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau, nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu
thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá
nhân cho lợi ích của Đảng"(7). Người phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng
địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lạo động. “Suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân"(8) là
phẩm chất cao quý của người cách mạng” - đó là “tính Đảng”, là nguyên tắc cao
nhất của Đảng mà mỗi đảng viên phải tuyệt đối chấp hành. Đó cũng là điều kiện
tiên quyết hình thành những tình cảm tốt đẹp, cao cả, nhiệt huyết cách mạng,
tình cảm và ý chí cách mạng của người đảng viên không ngừng phấn đấu cho sự
nghiệp chung, phấn đấu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đóng góp trí tuệ, sức lực,
tài năng cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh
đó, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 về
chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
nhằm tạo cơ chế, góp phần xây dựng và tăng cường bản lĩnh chính trị của cán bộ,
đảng viên.
Thứ hai, ham học hỏi, cầu tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã từng lưu ý cán bộ, đảng viên: “Nếu không chịu khó học
thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc
càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu
là bị đào thải, tự mình đào thải mình”(9). Công cuộc Đổi mới mà Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo thực hiện là một cuộc vận động mang tính cách mạng toàn diện và sâu
sắc, diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là một quá trình khó
khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa có mô hình định sẵn. Mặt khác, trong thời
đại công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đang có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ, nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh. Từ đó, đòi hỏi Đảng Cộng sản lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tiềm lực tư tưởng, khoa học mạnh mẽ ở
trình độ cao của trí tuệ xã hội và thời đại, trong đó đảng viên phải là người
có học thức, có năng lực trí tuệ và sáng tạo, có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến
bộ.
Cầu tiến bộ, ham học hỏi là phẩm chất đạo đức cách mạng rất căn bản, bởi
chỉ khi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt
thì Đảng mới không bị lạc hậu, mới đủ sức mạnh trí tuệ để lãnh đạo dân tộc thực
hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Phẩm chất này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải
nhanh chóng nắm bắt kiến thức khoa học hiện đại, trước hết là trong lĩnh vực hoạt
động của mình, bắt kịp những thành tựu mới trong lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm
nhiệm. Phẩm chất này đòi hỏi mỗi người phải chống lại thái độ chây lười, ngại học
tập, nâng cao trình độ, thoả mãn với vốn kiến thức đã có, coi thường khoa học,
lý luận, đề cao kinh nghiệm, chống lại tình trạng cán bộ, công chức, đảng viên
mà không thành thạo chuyên môn, chức trách, công việc được giao, làm ảnh hưởng
đến việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng
như sự tin tưởng của nhân dân với cán bộ, đảng viên. Xã hội càng hiện đại càng
đòi hỏi trình độ kiến thức cao. Với sự nỗ lực học tập không ngừng, cán bộ, đảng
viên mới có đủ khả năng lãnh đạo, quản lý xã hội phát triển.
Thứ ba, giữ vững kỷ luật Đảng và nghiêm chỉnh thực thi pháp luật của
Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến
đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”(10). Người yêu cầu “Các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(11). Là đảng viên cộng sản, thì khi nào và ở
đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức Đảng, phải hành động theo
phạm vi kỷ luật của tổ chức. Đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng
mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của
nhân dân, bởi “kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, nhân dân và Đảng cũng là
một”(12). Đối với cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, đảng
viên giữ vị trí càng cao, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu
kỷ luật nghiêm khắc. Trong bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng
trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật, không được
“tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”(13). Mọi đảng
viên có quyền trình bày ý kiến riêng của mình. Song, khi đã có nghị quyết của tập
thể thì phải làm theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ
chức. Phục tùng kỷ luật, đó là “bổn phận”, là “nghĩa vụ” của đảng viên, ngược lại
“không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị
quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với
nghĩa vụ của đảng viên”(14).
Ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên phải được thể hiện cả trong suy
nghĩ lẫn trong hành động, cả trong cách nói lẫn trong giao tiếp, ứng xử hàng
ngày và trong công việc. Đảng viên phải gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị,
quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất đặc biệt là bệnh tham ô, tham
nhũng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của tham ô, tham nhũng là ăn cắp của công,
là nhũng nhiễu, gian lận, đục khoét nhân dân, là tham lam, là trộm cướp. Trong
công cuộc Đổi mới, từ Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta đã nhận thức một cách
sâu sắc thực trạng và những tác hại sâu sắc của căn bệnh này: “Điều cần nhấn mạnh
là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân
dân (...). Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”(15). Văn kiện
Đại hội XIII thẳng thắn nêu lên khuyết điểm, hạn chế trong Đảng “tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ còn phức tạp… Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là
của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”(16). Bởi vậy, bên cạnh việc
nêu cao đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên thì việc tăng cườngcông tác
kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật của Đảng; xây dựng và thực thi hệ thống pháp
luật nghiêm minh là biện pháp cực kỳ cần thiết nhằm làm trong sạch hóa đội ngũ
cán bộ.
Tăng cường ý thức kỷ luật không có nghĩa là thủ tiêu sự sáng tạo cá
nhân của các cán bộ, đảng viên, đặc biệt trong công cuộc đổi mới toàn diện hiện
nay rất cần tư duy, nhận thức mới có tính đột phá, tạo nên sự chuyển biến mạnh
mẽ, nhanh chóng đời sống kinh tế xã hội. Song điều đó không có nghĩa đảng viên
có thể là vượt qua các nguyên tắc, vi phạm các quy chế của Đảng, đặt mình ra
ngoài tổ chức, đứng trên tổ chức, vi phạm các nguyên tắc tổ chức. Ý thức tổ chức,
kỷ luật, đoàn kết nội bộ là một phẩm chất tiên quyết của đạo đức cách mạng. Nó
bảo đảm cho các phẩm chất khác có thể thực hiện được trọn vẹn, đầy đủ và hoàn
chỉnh.
Thứ tư, trọng dân, yêu dân, tin dân, gần dân, học dân.
Đảng ta đã xác định chế độ chính trị của nước ta là chế độ làm chủ của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối
liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Không phải ngẫu nhiên Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan
điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng, học hỏi, có
quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo
đức của đảng viên.
Đảng ta là đảng cầm quyền, vì vậy, nhiều cán bộ, đảng viên là những người
lãnh đạo, quản lý. Cán bộ, đảng viên còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng,
là người tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, của Nhà nước. Bởi vậy, có yêu dân, có tin dân, có trọng dân, đảng
viên mới hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, mới tích cực lắng nghe ý kiến của
nhân dân, mới có thể khơi dậy và phát huy sức mạnh trí lực, nhân lực và tài lực
của nhân dân. Có gần dân, đảng viên mới hiểu đời sống xã hội thực tiễn phong
phú, sinh động đang diễn ra; mới nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân để đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp cũng như làm cho
dân hiểu, dân tin vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời,
có học hỏi dân, đảng viên mới mở mang, làm giàu thêm hiểu biết của mình bằng
trí tuệ sáng tạo và kinh nghiệm phong phú của nhân dân.
Đương nhiên, trong quá trình phát huy dân chủ phải chống thái độ theo
đuôi quần chúng. Đặc biệt với sự bùng nổ công nghệ thông tin, sự phổ biến rộng
rãi của các mạng xã hội như hiện nay, một vấn đề đưa có rất nhiều quan điểm,
nhiều luồng ý kiến trái chiều nhau. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên với tư
cách là người lãnh đạo quần chúng, cần phải có đủ tầm, đủ tâm, đủ bản lĩnh để
biết lắng nghe, chắt lọc những gì là thích hợp và đúng đắn. Sâu xa hơn, mỗi cán
bộ, đảng viên cần luôn phải tự ý thức một chân lý hiển nhiên: có nhân dân thì mới
có cán bộ, đảng viên; nhân dân bầu ra cán, trả lương cho cán bộ; không "trọng"
dân, tức là đã phản bội người đã bầu mình, nuôi mình. Không “gần dân, trọng
dân”, đó không chỉ là sự vi phạm đạo đức đảng viên mà rộng hơn là sự tha hóa của
đạo đức “làm người”.
Thứ năm, phòng chống chủ nghĩa cá nhân.
Ngay sau khi Đảng trở thành Ðảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhìn thấy trước hoàn cảnh mới, người cán bộ, đảng viên rất dễ sa vào chủ nghĩa
cá nhân. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là trong bất cứ công việc gì cũng nghĩ
đến lợi ích riêng của mình trước hết, muốn cho mọi người vì mình trước khi mình
vì mọi người. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ
bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền
hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên
quyền, quan liêu, mệnh lệnh, v.v.... Từ đó, Người đặt ra nhiệm vụ “xoá sạch chủ
nghĩa cá nhân”(17) là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục trong công tác
xây dựng Đảng.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo duy nhất và nhất
từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng có điều kiện phát triển. Mục tiêu
làm giàu bằng mọi giá, coi trọng lợi ích vật chất đã và đang trở thành cái đích
hướng tới của không ít người. Do vậy, đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đối với
một số người có chức, có quyền nếu thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng, họ rất dễ
bị cám dỗ và sa ngã bởi lợi ích vật chất "che mắt", việc lợi dụng chức
quyền, thu vén cá nhân, tham nhũng, làm giàu bất chính dẫn đến suy thoái về tư tưởng,
đạo đức, lối sống, biến chất về phẩm chất chính trị là hệ quả tất yếu. Chống chủ
nghĩa cá nhân hiện nay, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phục tùng
kỷ luật tập thể, biết đặt “việc công, lợi ích công” lên trên hết và trước hết,
kiên quyết loại bỏ ham muốn không chính đáng, làm phương hại đến lợi ích tập thể,
lợi ích của Đảng, của nhân dân và dân tộc.
Nêu cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là hy
sinh lợi ích chính đáng của cá nhân, xóa bỏ cá tính cá nhân. Chủ nghĩa tập thể
kết hợp hài hoà quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể theo
nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Giữ vững kỷ luật tập
thể, tổ chức đồng thời tôn trọng sáng kiến cá nhân, phát triển cá tính, phát
triển nhân cách và năng lực sáng tạo, đóng góp riêng của mỗi cá nhân. Làm được
điều đó, mới có thể gắn bó, đoàn kết mọi người trong tổ chức và tạo nên sức mạnh
vô địch của cách mạng.
Ở bất kỳ giai đoạn nào, sự hoàn thiện đạo đức trong Đảng với những tấm
gương sáng về đạo đức của cán bộ, đảng viên luôn có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn
đến những giá trị đạo đức của toàn xã hội, của dân tộc. Từ khi nước ta chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có một thực tế là, hệ
thống thang giá trị chuẩn mực xã hội được hình thành trong đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã và đang biến đổi. Bởi vậy,
để thực hiện nhiệm vụ cao cả, cần thiết nhưng hết sức khó khăn và phức tạp hiện
nay là xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam phải định hướng
những chuẩn mực đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải đạt được. Đạt được những
chuẩn mực đó, sẽ làm trong sạch Đảng, giải quyết những bức xúc của nhân dân, củng
cố lại niềm tin của dân với Đảng, nâng Đảng lên tầm cao mới, góp phần vào sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
TS. Lê Thị Hằng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
--
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.9, tr.
354.
(2) (11) (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr.169, 611, 169
(3) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292, 291.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.184.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 467.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 333.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 17.
(12) (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 11, 284
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 67
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 15, 76
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tập II, tr. 222
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét