Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Hiện nay, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang được triển khai tích cực trong bối cảnh mới của thế giới có nhiều biến động.
Từ
quá trình nhận thức về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”…
Trước
Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa đề cập
tới “toàn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “toàn cầu hóa
kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế
là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia
chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”(1). Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại
hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI
của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế”
sang nhận thức về “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Toàn
cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá
trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”(2). Đại hội XII của
Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng
khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”(3). Báo cáo chính trị
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự
trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”(4).
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng
Chính phủ. Cùng
với nhận thức về toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế.
Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường”(5). Đại hội X của Đảng
(năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề
ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”(6). Đến Đại hội XI của
Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(7).
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong
đó phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(8). Cương lĩnh đặt ra
yêu cầu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào
sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(9). Ngày 10-4-2013, Bộ
Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập
quốc tế”. Một trong những nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra
là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị
thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(10). Đại hội XII đề ra
chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu
dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện
hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể
với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước… Đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và
các lĩnh vực khác”(11). Báo cáo chính trị
Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển
quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó “tiếp tục thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế,
tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu
của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ
động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị
trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức
hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục
tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”(12).
Như
vậy, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và
“hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với
việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận
thức về “quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế”
và đi đến nhận thức về “toàn cầu hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”,
Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục -
đào tạo và các lĩnh vực khác”.
Những
năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “toàn cầu
hóa” đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý
kiến này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế
giới, đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương
mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã
rút khỏi một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là phải
chăng toàn cầu hóa đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một trong những
cơ sở căn bản để Đại hội XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước
trong những năm tiếp theo.
Xét
về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân
biệt với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính
trị nhất định trên thế giới), “cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp
lực lượng trên thế giới), “cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất
nước). Xã hội loài người ngày nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế
giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu
rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan,
không thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết
hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển
nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là gốc rễ quy định xu thế toàn cầu
hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến
tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản
xuất xã hội loài người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định
sẽ có bước nhảy vọt mới trong tiến trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa hoàn toàn
không chững lại.
Sự
gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với việc
chia cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt
lập, không làm đứt đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, không làm mất đi các
vấn đề toàn cầu nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc
giải quyết chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và những nỗ lực chung của cộng
đồng quốc tế. Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “trở ngại” mới về
thuế quan và phi thuế quan cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà những
trở ngại này luôn tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa. Những số liệu thống kê
của thế giới về thương mại và đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng
của các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư
quốc tế vẫn tăng lên.
Việc
hình thành “cái toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa kéo theo việc ra đời các
định chế toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF)... Các định chế này không phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt
động của chúng phải luôn cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của “cái toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm sức sống, nâng cao
tính hiệu quả của các định chế quốc tế, chứ không phải và càng không thể ngăn
cản tiến trình toàn cầu hóa. Bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự
bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải
tổ, cải cách các định chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản
trị toàn cầu mới.
Yêu
cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng
phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc chủ trì phiên thảo luận về
quan hệ hợp tác giữa Liên hợp quốc và ASEAN trong duy trì hòa bình và an ninh
quốc tế, tháng 1-2020_Nguồn: UN
Có
thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia
vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế
giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị
thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt
động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành
khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ”
khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ
đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị
thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển
hệ thống...
Cần
loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng
“hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là
ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác
nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các
nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên
minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái
niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu
thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để
đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ
tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc
tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về
chiều “rộng - hẹp”,
có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội
nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai
là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn
các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập
rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng
đồng quốc tế.
Về
chiều “nông - sâu”,
cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội
nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là,
hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định
trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập
có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý
thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là
một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và
phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường
hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát
triển “tính trồi” của cả hệ thống.
Với
cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả
các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có
trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế,
cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích
cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối
cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan
tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ
nhất,
nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới
của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng
nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế.
Thứ
hai,
Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã
hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập
tương đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ
phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị
trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế
giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về
kinh tế,
cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu
tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội
đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn
thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối
cứng” và “kết nối mềm”.
Tỉnh An Giang tổ chức Lễ công bố
xuất khẩu lô hàng gạo thơm của Tập đoàn Lộc Trời sang Châu Âu theo Hiệp định
thương mại tự do EVFTA, ngày 22-9-2020 (Trong ảnh: Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn cùng các đại biểu tham quan sản phẩm tại Nhà máy sản xuất
gạo Lộc Trời)_Ảnh: TTXVN
Về
chính trị,
tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là
các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ
động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt
Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.
Về
văn hóa - xã hội,
cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn
và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên
sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các
giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực
tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng
quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu
tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân
loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất
nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai
trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá
trị xã hội và cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả
hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây
bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn
hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý
nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử
dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện
truyền thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện
truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.
Thứ
ba,
khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần
xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi
hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng,
để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề
đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến
lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử
lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong
xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn
cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...
Thứ
tư,
Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách
hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng
“luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ
năm,
trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh
chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều
kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng
lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này./.
------------------------
TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
Nguyên
Phó Trưởng Ban thường trực Ban Đối ngoại Trung ương
(1),
(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII,
VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 617, 664
(2) Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr.28
(3),
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 18, 79, 155-156
(6) Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 112
(7),
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr. 235-236, 72, 83-84
(4),
(12) Nguyễn Phú Trọng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét