Công trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa được phát hành đã có đóng góp to lớn, nhiều mặt vào kho tàng lý luận của Đảng, như lý luận về đường lối đổi mới; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị…, qua đó, có tác dụng định hướng quan trọng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cuốn
sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng được Hội đồng Lý luận
Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật phối hợp xuất bản đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của đông đảo cán bộ,
đảng viên, nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế. Công trình tập hợp 29 bài
viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kể từ khi chuẩn bị xây
dựng các dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng đến nay.
Nội
dung công trình đã thể hiện những đóng góp to lớn, nổi bật của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trong việc tổng kết toàn diện và sâu sắc những vấn đề lý luận
và thực tiễn của cách mạng Việt Nam; khẳng định mạnh mẽ về mô hình chủ nghĩa xã
hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã
lựa chọn; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta; khẳng định sự đúng
đắn, sáng tạo của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo....
Có thể
nhận thấy những nội dung tư tưởng, lý luận và thực tiễn nổi bật của công trình
trên các mặt sau đây:
Một là,
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam
Bài
viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” được đồng chí Tổng Bí thư viết nhân
dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021) và
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021 - 2026, đã định hình (xác định mô hình) CNXH
Việt Nam và định hướng rõ hơn về con đường đi lên CNXH của
Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của Việt Nam và xu thế của
thời đại.
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, CNXH Việt Nam là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam; là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang
kiên định, kiên trì theo đuổi. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam gắn liền với độc lập dân tộc, quyền tự
quyết của dân tộc, gắn liền với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do!”. Và, chỉ có CNXH mới bảo đảm độc lập cho dân tộc, quyền tự quyết của dân
tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, của mọi người, mọi dân tộc trên đất nước ta.
Bài
viết chỉ rõ, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng
thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta đã cho phép xác định được mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa (XHCN) mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là: Xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới.
Để thực
hiện được mục tiêu, mô hình đó, cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng
nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp
với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện.
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, xây dựng xã hội XHCN Việt Nam là xây dựng một
xã hội mới về chất, đó là một sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn và phức tạp,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, cạnh tranh với nhau. Đi lên CNXH là quá trình không ngừng củng cố, tăng
cường, phát huy các nhân tố XHCN để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo
và chiến thắng những nhân tố, thiết chế, thể chế phi XHCN, không phù hợp với
chế độ XHCN. Thực hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một
sự nghiệp cách mạng mới mẻ, khó khăn, lâu dài; vì thế, phải kiên trì, không chủ
quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật
khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. Thành công hay thất bại của sự
nghiệp xây dựng CNXH phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, của bản
lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản. Vì vậy, sự nghiệp
xây dựng CNXH phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng
cách mạng chân chính, không có lợi ích nào khác, ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.
Để lãnh
đạo, cầm quyền xây dựng thành công CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam cần thường
xuyên đặt ra yêu cầu tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao tầm trí tuệ, đạo đức,
văn minh; phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích
cực của nhân dân; phải luôn xuất phát từ thực tiễn và lợi ích của quốc gia -
dân tộc và phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và
thời đại; phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,… để chủ nghĩa, học thuyết
của chúng ta, mô hình và con đường đi lên CNXH luôn tươi mới, luôn được tiếp
thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ,
lạc hậu so với cuộc sống và thời đại.
Hai là, về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh
Công
trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã phân tích, làm rõ nội dung
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và việc học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, “Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp
nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Người là
kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khí phách, lương tri của dân tộc và
thời đại”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người cộng sản
Việt Nam mẫu mực, mà còn là một chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy
chung, là biểu tượng vĩ đại, sáng ngời và lỗi lạc của phong trào giải phóng dân
tộc, của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, của hòa bình và hữu nghị giữa
các dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện một tầm nhìn lớn lao, một nhãn
quan văn hóa rất mực nhân văn, sâu sắc và tinh tế; đó là
tầm vóc của một danh nhân văn hóa thế giới. Người để lại cho Đảng ta, nhân dân
ta, cho các thế hệ hiện nay và mai sau một di sản tư tưởng vô cùng quý báu, một
tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách và lối sống. Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khái quát: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã hun đúc nên sự
nghiệp Hồ Chí Minh, thời đại Hồ Chí Minh -
thời đại rực rỡ nhất, vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc ta”(2);
“Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người là hiện thân của những khát vọng lớn
lao của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của dân tộc mình và tiêu biểu
cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”(3) trên
thế giới.
Phân
tích, làm rõ nội hàm khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đạo đức Hồ Chí
Minh và Phong cách Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam;
là kết quả của quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác;
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới, vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định tầm nhìn, vai trò, bản lĩnh, trí tuệ và uy tín của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; là cống hiến to lớn và đầy sáng tạo của Người trong việc thành
lập, giáo dục và rèn luyện một đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường cách mạng phù hợp với đặc thù, thực tiễn
Việt Nam. Đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tiến hành cách mạng XHCN, quá độ
tiến lên CNXH để đất nước độc lập, tự do, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng vĩ
đại của Người là tài sản vô giá, luôn đồng hành cùng dân tộc; dẫn dắt toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đi tới thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; là đóng góp quý báu vào sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp
bức trên thế giới, vào sự phát triển những tinh hoa tư tưởng và văn hóa nhân
loại.
Là học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, nên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa
ra những nhận xét khái quát, sâu sắc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời, là biểu tượng mẫu mực về đạo đức cách mạng cao đẹp. Đạo đức Hồ
Chí Minh là đạo đức cách mạng, là những phẩm chất cao quý của người
cách mạng. Đó là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư… Phong cách Hồ Chí Minh là lối sống, tác phong khiêm tốn, giản dị, cầu thị, gần
dân, trọng dân, tin dân, học dân, làm việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân, là
đầy tớ của nhân dân chứ không phải “làm quan nhân dân”. Đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời
nói và việc làm một cách tự nhiên. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta tìm
thấy trong những lời dạy của Người và từ tấm gương đạo đức cao đẹp, từ phong
cách của Người những chuẩn mực cần noi theo trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện
để mỗi ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, vươn tới những giá trị chân - thiện -
mỹ. Từ đó, đồng chí yêu cầu đưa việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành sinh hoạt chính trị thường xuyên, trở
thành một nhu cầu văn hóa trong toàn Đảng, toàn dân; chú trọng quán triệt, tập
trung làm tốt ba vấn đề là: Học tập, làm theo Bác và nêu
gương của cán bộ, đảng viên.
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, học tập Bác là học tập tư tưởng,
thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng, đạo đức và phong cách của người
chiến sĩ cộng sản chân chính; cần thúc đẩy việc học theo Bác trở thành lối
sống, nếp sống, cách làm của từng cán bộ, đảng viên và người dân. Làm
theo Bác là thúc đẩy, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ “học tập” sang “làm
theo”, bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong thực hiện nhiệm vụ, chức
trách được giao về chuyên môn, nghiệp vụ và công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Nêu gương là thực hiện đồng thời, gắn kết việc học tập
với làm theo Bác và nêu gương; trong đó, đề cao vai trò tiền
phong, gương mẫu với nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với
người lãnh đạo, người đứng đầu. Điều quan trọng là: “Mỗi cán bộ,
đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng
cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân
dân noi theo”(4). Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán
bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và
trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám
dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng tầm thường. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn
luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm,
hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức,
tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội. Thực hiện những giải pháp
đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi
tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội.
Trong
quá trình thực hiện ba nhiệm vụ Học tập, làm theo Bác và nêu
gương của cán bộ, đảng viên, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”, trong đó “xây” là cơ bản, chiến lược, “chống” là quan trọng, cấp bách;
đề cao tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự
soi”, “tự sửa”,… làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
và hạnh phúc của nhân dân, tạo điều kiện để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Ba là, về xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị ở Việt Nam
Trong các vấn đề trọng
tâm được đề cập trong công trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vấn đề
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở nước ta được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đặc biệt quan tâm: Từ cơ sở lý luận về xây dựng Đảng, Nhà nước pháp quyền XHCN,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đến những vấn đề cụ
thể về công tác tổ chức, cán bộ, kiểm tra, nội chính, thi đua khen thưởng, văn
hóa, đối ngoại, về công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, về xây
dựng lực lượng quân đội, công an,…
Ở lĩnh vực nào Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng cũng có sự am hiểu sâu sắc, sự sẻ chia, đồng cảm, sự gợi
mở, định hướng thuyết phục. Đồng chí nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo
đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là
nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”(5).
Phải tiếp tục nâng cao hơn nữa bản lĩnh và trí tuệ của Đảng, để Đảng thực sự
“là đạo đức, là văn minh”; phải nỗ lực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; xây dựng Đảng ta và hệ thống chính trị ở nước ta ngày càng trong
sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, đủ sức để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn, trong đó có việc phát huy những tác
động tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị
trường, của quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng phân tích, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam. Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc. Đảng cầm quyền, lãnh đạo
cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo mình; do đó,
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam có lợi ích
thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ,…
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát
biểu chỉ đạo Hội nghị cán bộ toàn quốc về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
tháng 12-2021_Ảnh: TTXVN
Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị cần được đặc biệt chú trọng, tiến hành toàn
diện, đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ… Cần thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng,
nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh,
giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của
Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đặc biệt coi trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ - nội dung then
chốt trong công tác xây dựng Đảng; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Siết chặt kỷ luật đảng, kỷ luật, kỷ cương hành
chính, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực
nhằm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, nâng
cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực,
các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
nhiều lần tâm sự, nhấn mạnh: “Điều rất cơ bản, rất then chốt có ý nghĩa quyết
định cho mọi công việc, đó là phải làm sao giữ cho được, làm cho đúng theo tư
cách, đạo đức, danh dự của người đảng viên, người cán bộ cách mạng, đặc biệt là
những người lãnh đạo… Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh
dự sống”(6); “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho
có ý nghĩa, để không phải xót xa ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô
liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều
thiêng liêng, cao quý nhất!”(7).
Công trình đã làm
rõ hơn mô
hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở nước ta
gồm có 3 bộ phận: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng
lãnh đạo là đề ra đường lối, chủ trương, phương hướng xây dựng, phát
triển và bảo vệ đất nước, mở rộng các quan hệ đối ngoại. Nhà nước quản
lý là tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương
của Đảng, biến nó thành hiện thực. Nhân dân làm chủ (thông qua
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên…) là chủ thể thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và được thụ
hưởng các thành quả do mình làm ra.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng chỉ rõ, trong chế độ chính trị của chúng ta: “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi
ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”(8). Vì vậy, xây dựng chế độ
XHCN là xây dựng một chế độ “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên
nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh
tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có
điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(9).
Đây là những chỉ dẫn rất quan trọng của Tổng Bí thư trong quá trình xây dựng
chế độ chính trị và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
đồng thời lưu ý: Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn
diện, điều “Đặc biệt là cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân
cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát
giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính quyền các địa phương… với các
cơ quan, đơn vị của Đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống các cơ
quan tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; bảo
đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một cách đồng bộ, thống nhất;
tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “quyền anh, quyền tôi”,
“cua cậy càng, cá cậy vây””(10).
Bốn là, về đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Điều đó khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng; sự đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực
hiện đường lối đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự ủng hộ, giúp
đỡ của các đối tác và bạn bè quốc tế. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước
tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả cụ thể rõ rệt rất quan trọng, toàn diện, để lại
dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự đã trở thành phong trào, xu thế,
được cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, được quốc
tế ghi nhận.
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực đã đạt được là cơ bản, chúng ta
cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách
thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Chất lượng tăng trưởng, sức cạnh
tranh còn thấp, thiếu bền vững, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, sự xuống cấp
nghiêm trọng về một số mặt của lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống… gây bức xúc
xã hội. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, “bệnh thành
tích”, “tư duy nhiệm kỳ”, “lạm quyền”, “lộng quyền”, vi phạm nguyên tắc tổ chức
đảng đang còn nghiêm trọng”. “Sự bảo thủ, trì trệ; tư duy cục bộ, lợi ích nhóm;
sự tha hóa quyền lực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tham nhũng,
lãng phí, xuống cấp về mặt đạo đức và trách nhiệm xã hội, v.v. cũng là những
thứ giặc nội xâm vô cùng nguy hiểm, đe dọa vai trò lãnh đạo và sứ mệnh của
Đảng, sự tồn vong của chế độ, vận mệnh của đất nước, dân tộc”(11) chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi. Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những nguy
cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch
vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta;
chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, phá hoại hệ tư tưởng, Cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ
Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên
trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Là một
người mẫu mực nêu gương đạo đức thanh liêm, kiên quyết đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, đồng chí khẳng định, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là
một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng và hệ thống chính trị. Cần kiên trì,
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm
chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn; đồng thời,
gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, là cơ sở để tạo ra sự đồng
thuận xã hội, sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, qua đó tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ
chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng” và
kiên quyết đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bị
tác động không trong sáng bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào… Kết hợp chặt chẽ
giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp
thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng,
kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật hình sự đối với những người vi phạm,
bất kể đó là ai”(12). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Phòng,
chống tham nhũng là “chống giặc nội xâm”, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên,
vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên
trì, liên tục, “không ngừng”, “không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các
lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính,
kinh tế, hình sự; với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng
tâm, trọng điểm; phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để
“không thể tham nhũng”, một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám
tham nhũng” và một cơ chế bảo đảm để “không cần tham nhũng”(13).
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chống tham nhũng, tiêu cực và các biểu hiện suy
thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ không làm giảm sự đổi mới, sáng tạo, làm “chùn bước” những
người dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung và làm “chậm” sự
phát triển đất nước, không phải là “đấu đá nội bộ”, “phe cánh”, mà ngược lại
chính việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần
quan trọng đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng
và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong
sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách
của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”(14).
Năm là, về chủ nghĩa tư bản
hiện đại
Trong
công trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã đi sâu phân tích, nêu bật bản chất của chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện nay. Với
nhãn quan duy vật biện chứng, khách quan, khoa học, đồng chí cho rằng, chúng ta
cần nhận thấy rằng CNTB chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát
triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát
triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế ở mức cao và do kết quả đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ
phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Để
thích ứng với điều kiện mới, CNTB thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy
các chính sách “tự do mới” trên phạm vi toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng
phát triển.
Tuy
nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, CNTB vẫn không thể khắc phục
được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng cơ cấu, khủng
hoảng chu kỳ ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) vẫn tiếp tục diễn ra; khoảng
cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng, làm trầm trọng thêm
những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc, tôn giáo. Những tình huống “phát
triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính
đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội. Đồng chí Tổng Bí
thư chỉ rõ: Quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu
tối thượng, vì lợi nhuận mà bóc lột tàn tệ và chà đạp lên phẩm giá con người,
coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn
minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội và cạnh tranh khốc liệt để
chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, là đặc trưng cốt yếu của
phương thức sản xuất và tiêu dùng TBCN.
Đi sâu
vào bản chất của chế độ TBCN, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, đây vẫn là
chế độ của thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn.
Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn
của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các
phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Trên
thực tế, các thiết chế dân chủ tư sản theo công thức “dân chủ tự do” vẫn chỉ
dành cho những ông chủ tư bản, những tập đoàn tư bản. Các quyền tự do dân chủ
cho số đông người dân vẫn chỉ là hình thức, rất ít thực chất. Trong đời sống
chính trị, khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ
bị lấn át. Ở các nước tư bản, các cuộc bầu cử gọi là tự do, dân chủ, dù có thể
thay đổi được chính phủ, thay đổi được phe nhóm nhưng không thay thế được thế
lực thống trị, giai cấp cầm quyền; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn
là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản, của giai cấp tư sản. “Pháp quyền dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích
của giai cấp tư sản”(15). Mâu thuẫn giữa lao động và tư bản là không
thể điều hòa được, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một
cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ TBCN.
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận diện và phân tích thuyết phục về bản chất của CNTB
hiện đại, về sự phát triển không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường
sinh thái của nó để từ đó chỉ rõ: Con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Tuy nhiên, đồng chí cũng lưu ý: “Nói
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc
lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế
chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ
qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ
phát triển chủ nghĩa tư bản”(16). Mặt khác, Đảng lãnh
đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết
sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn
phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới, tiếp thu có
chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại. “Trong thế giới toàn cầu
hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập,
đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục
diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển,
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi”(17). Đó là cái nhìn toàn diện, biện chứng, lịch
sử, khách quan về CNTB, là cơ sở để chúng ta vừa hợp tác vừa đấu tranh, “hội
nhập” mà không “hòa tan” trên con đường đi lên CNXH.
Công
trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đề cập những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở tầm quốc gia, dân tộc và quốc tế với tư duy lý luận sâu
sắc, biện chứng, khách quan, mang tính lịch sử - cụ thể, được diễn đạt khúc
chiết, rành mạch, dung dị, dễ hiểu. Và trên hết, chúng ta nhận thấy ở công
trình thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, danh dự, đạo đức, nhân cách trong sáng và
trái tim sục sôi bầu nhiệt huyết cách mạng, luôn đau đáu vì Đảng, vì nước, vì
dân của vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta.
Đây là
tài liệu hết sức quý báu phục vụ việc nghiên cứu, học tập, giáo dục chính trị,
tư tưởng và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân ta và bạn bè yêu
chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới về CNXH và con đường đi lên CNXH, về
công cuộc đổi mới ở Việt Nam; khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu
nhập cao, theo định hướng XHCN như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.
----------------------
PGS, TS. NGUYỄN DUY BẮC
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.229
(2) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 247
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 247
(4) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 336
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 29
(6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 365 - 366
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 142
(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 93
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 93
(10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 96
(11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 151, 238
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 137
(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 405
(14) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 401
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 29
(16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 25
(17) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd,
tr. 37
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét