Thứ Tư, 30 tháng 3, 2022

Giữ vững rường cột nước nhà

Tuổi trẻ cả nước đang tổ chức đại hội đoàn các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022-2027.

Đoàn Thanh niên TTXVN phát động Tháng thanh niên tại Khu Di tích Tân Trào. Ảnh: TTXVN

Trong lúc đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) cả nước, với vai trò, vị thế là cánh tay đắc lực, đội dự bị tin cậy của Đảng, là rường cột của nước nhà, đang bước vào đợt sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng, thì các thế lực thù địch cũng nhân cơ hội này đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá...

Ngụy biện thông tin, lèo lái dư luận

Giới trẻ nói chung, ĐVTN nói riêng vừa là mục tiêu, đối tượng, vừa là công cụ được các thế lực thù địch triệt để khai thác, lợi dụng, tập trung chống phá. Các chiến dịch tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch từ trước đến nay đều đặt giới trẻ ở vị trí trung tâm, trọng tâm. Mục tiêu của chúng là hủy hoại “cánh tay đắc lực của Đảng”, làm tan rã “đội dự bị tin cậy”, phá vỡ “rường cột” đất nước. Chúng muốn thanh niên Việt Nam bị mất phương hướng, bị kích động, quay lưng, phai nhạt lý tưởng của Đảng, đi theo con đường phản nước, hại dân...

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” xuyên suốt ấy, chúng thường bám vào các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và diễn biến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội theo dòng thời sự chủ lưu để tạo cớ đào rộng, khoét sâu, ngụy tạo chứng cứ gây nhiễu thông tin, nội công ngoại kích, lèo lái dư luận theo ý đồ, kịch bản đã được vạch sẵn. Bám vào đại hội đoàn các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XII và kỷ niệm 91 năm truyền thống của Đoàn để đẩy mạnh chiến dịch công kích, xuyên tạc, chống phá là hoạt động nằm trong chuỗi chiến lược ấy. Bình tĩnh, sáng suốt nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn để có phương án đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch là trách nhiệm, bổn phận trước hết của mỗi tổ chức đoàn, mỗi ĐVTN yêu nước.

Theo dõi tình hình, chúng ta thấy rõ, sau những chiến dịch truyền thông dồn dập trên không gian mạng chống phá Đại hội XIII của Đảng, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch Covid-19... chiến dịch công kích, chống phá của các thế lực thù địch hiện nay đang chĩa mũi nhọn vào tuổi trẻ Việt Nam, vào tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Cụ thể những ngày gần đây, bám vào tình hình thời sự nóng bỏng từ cuộc xung đột vũ trang Nga-Ukraine, tình hình phức tạp trên Biển Đông và những vụ án, vụ việc tiêu cực trong nước... chúng lồng ghép thông tin, bình luận, ngụy biện, lèo lái dư luận xã hội nhằm phủ nhận vai trò của Đoàn đối với tuổi trẻ đất nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Bằng các hình thức “tọa đàm”, phỏng vấn, lấy ý kiến thế hệ trẻ Việt Nam, chúng sắp xếp sẵn những đối tượng thanh niên là người Việt Nam ở nước ngoài có tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước để gieo rắc, truyền tải tư tưởng phản động. Từ ý kiến cá nhân trên một số diễn đàn, chúng đòi xóa bỏ Huy hiệu Đoàn, kêu gọi tuổi trẻ tẩy chay tổ chức đoàn và các phong trào thanh niên.

Từ việc ngụy biện cho rằng, Đoàn chỉ còn là “cái vỏ hình thức”, không còn phù hợp với tuổi trẻ thời hội nhập quốc tế, chúng kêu gọi thanh niên, trí thức trẻ đi theo trào lưu “cấp tiến”, tư tưởng “tự do”, “dân chủ”, tung hô những bạn trẻ lầm đường lạc lối là những “anh hùng”. Nhiều phương tiện truyền thông hải ngoại phát tiếng Việt gọi những đối tượng này bằng những danh xưng lộng ngôn, ngoa ngôn, kiểu như: “Nhà hoạt động dân chủ”, “nhà đấu tranh nhân quyền”, “nhà hoạt động xã hội”, “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà phản biện xã hội” v.v.., cổ xúy trào lưu lợi dụng tự do ngôn luận để “phản biện”, lôi kéo thanh niên rời xa Đảng. Thời gian qua, có không ít đối tượng núp bóng một số tổ chức phi chính phủ, lợi dụng các hoạt động từ thiện, bảo vệ môi trường để tập hợp, lôi kéo thanh niên tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài nhằm “tẩy não”, gieo rắc tư tưởng cực đoan, chống đối Đảng, Nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trên thực tế, không ít bạn trẻ non kém bản lĩnh, nhẹ dạ cả tin, ăn phải thứ “bánh vẽ” ảo tưởng, đã tha hóa về nhân cách, trở thành công cụ đắc lực cho các thế lực thù địch lợi dụng. Có thể thấy, chiến lược, thủ đoạn của các  thế lực thù địch nhằm “tẩy não” giới trẻ Việt Nam đã và đang được điều chỉnh, thay đổi ngày càng tinh vi nhằm chuyển hóa tư tưởng, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” ở thế hệ rường cột nước nhà. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, chú trọng các hình thức, giải pháp củng cố trận địa tư tưởng trong thanh niên, nhất là thanh niên giới trí thức và công nhân, người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, giữ vững lực lượng rường cột nước nhà.

 

Khắc phục “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”

Phát biểu tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017-2022, bên cạnh khẳng định thành tích của tuổi trẻ Việt Nam và Đoàn là rất to lớn và đáng tự hào, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ trách nhiệm của Đoàn trong định hướng giáo dục thanh niên là “tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Sự chỉ đạo, lời căn dặn của người lãnh đạo cao nhất Đảng ta rất súc tích, vừa mang tính khái quát cao, vừa cụ thể.

Tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” xuất phát từ thực tế công tác Đoàn và phong trào thanh niên còn nhiều hạn chế, chậm đổi mới. Một số hoạt động của Đoàn còn nặng về bề nổi, dàn trải, hình thức, kết quả thiếu bền vững. Một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc...

Sau 5 năm nhìn lại, với tinh thần khách quan, thẳng thắn, nghiêm túc, chúng ta thấy rằng, nhiều mặt hạn chế, bất cập trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên vẫn chậm được khắc phục. Tại các hội nghị góp ý xây dựng Văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII do Trung ương Đoàn tổ chức, nhiều đại biểu đã kiến nghị các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong một bộ phận thanh niên hiện nay.

Đại hội đoàn các cấp tiến tới Đại hội Đoàn toàn quốc nhiệm kỳ 2022-2027 là đợt sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thanh niên cả nước. Đây cũng là giai đoạn thanh niên Việt Nam thể hiện sứ mệnh là lực lượng chủ lực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trọng tâm là công cuộc chuyển đổi số, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng. Với phương châm “lấy xây để chống”, việc củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong thanh niên phải được coi trọng, đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu, tìm kiếm các mô hình tập hợp, giáo dục thanh, thiếu niên phù hợp với nguyện vọng, mục tiêu phấn đấu của tuổi trẻ, tích cực, mạnh dạn, quyết liệt đổi mới để công tác Đoàn và phong trào thanh niên thực sự hấp dẫn, thu hút thanh niên, là những vấn đề đã và đang được Trung ương Đoàn lấy ý kiến rộng rãi.

 

Với tư cách là “Đội dự bị tin cậy của Ðảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, thanh niên Việt Nam phải luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong nhiệm vụ đấu tranh chống các quan điểm, khuynh hướng chính trị sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Để mỗi ĐVTN thực sự là một chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh phức tạp, nhiều thách thức này, tổ chức đoàn các cấp phải khắc phục tình trạng hình thức, hời hợt, thiếu bền vững trong các phong trào, chương trình hành động.

Biến quy trình giáo dục thành tự giáo dục để ĐVTN có ý thức tự giác, tự chủ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao ý thức, thái độ, kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch trên không gian mạng là những mục tiêu, giải pháp tổ chức đoàn các cấp dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đoàn cần có các mô hình thực hiện một cách bài bản, kiên trì, hiệu quả.

Thanh niên vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của không gian mạng. Khi ĐVTN được giáo dục, trang bị đầy đủ lý luận chính trị, được tập hợp, thống nhất dưới ngọn cờ Đoàn, sẽ tạo nên sức đề kháng mạnh mẽ, là bức tường thành vững chắc của trận địa tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi các khuynh hướng lệch lạc, giữ vững rường cột nước nhà. Giáo dục, vận động ĐVTN về thái độ sử dụng mạng xã hội, về văn hóa ứng xử trên không gian mạng để ngày hội lớn của tuổi trẻ cả nước trở thành sắc màu, nội dung chủ đạo trên các tài khoản cá nhân và các trang, nhóm trên mạng xã hội là điều cần làm của tổ chức đoàn các cấp trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là cách lấy xây để chống, ngăn chặn sự xâm nhập của các thông tin độc hại, phản động mà các thế lực thù địch đang hướng vào thanh niên.

Thanh Kim Tùng/Theo QĐND.vn 

Kiên định những nguyên tắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

(TG) - Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tác phẩm mang tính chính luận, tính khoa học sâu sắc đã luận giải một cách thấu đáo về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.



Với niềm tin mãnh liệt về con đường cách mạng của Đảng, của Bác Hồ và Nhân dân đã lựa chọn, Tổng Bí thư khẳng định, đây là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, Tổng Bí thư cũng lưu ý rằng, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là thời kỳ chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, tinh thần đi lên chủ nghĩa xã hội, còn vô vàn khó khăn, gian khổ, bởi do điểm xuất phát và hoàn cảnh đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta có rất nhiều khó khăn, do vậy chúng ta phải nắm vững và kiên định những nguyên tắc có ý nghĩa sống còn “đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta”, không ai được phép nghả nghiêng, dao động mới có thể đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa như mong muốn.

Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với sự dẫn dắt thuyết phục, Tổng Bí thư nhấn mạnh các nguyên tắc,đó là:

Một là, kiên định và vận dụng sáng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tổng Bí thư khẳng định: “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học”(1). Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng của thời đại. Tổng Bí thư nêu rõ: “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(2). Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tổng Bí thư luận giải, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.Vì vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm, thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(3).

Ba là, kiên định đường lối đổi mới của Đảng.

Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trên các lĩnh vực. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt những năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7%/năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Việt Nam đã tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Mặc dù còn nhiều khó khăn về trang thiết bị, cơ sở dịch vụ y tế… nên chưa thể cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho người dân nhưng Việt Nam đã tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công.

Đặc biệt, trong gần ba năm qua, đại dịch Covid-19 đã khiến cả thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ Việt Nam, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, nhân dân Việt Nam đã đồng lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành đã thực hiện những biện pháp mạnh mẽ, toàn diện chiến đấu chống dịch để đảm bảo quyền được sống, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được bảo vệ của nhân dân với phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau”; các gói an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được nhanh chóng quyết định và triển khai một cách thiết thực, hiệu quả để kịp thời giúp đỡ, hỗ trợ những người khó khăn nhất trong lúc dịch bệnh - điều đó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn và xây dựng.

Những thành tựu kể trên đã chứng minh rằng, “việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam”(4)không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Có thể nói, “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện”(5). Rõ ràng, “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế(6)”.Đây là lý do phải kiên định đường lối đổi mới của Đảng.

Bốn là, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư khẳng định “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; và công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta”(7). Nhờ kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng mà Đảng ta đã vượt qua mọi thách thức, củng cố, phát triển đội ngũ đảng viên; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng để đưa công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như hiện nay. Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, Tổng Bí thư cũng nghiêm khắc phê bình, trong những năm qua, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp đã suy thoái, vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng, “đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước”(8), gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, chính trị.Vì vậy, hơn bao giờ hết chúng ta phải kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng: tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; đoàn kết thống nhất trong Đảng; Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật để tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng, tính tiên phong, gương mẫu, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Với cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu nhưng thể hiện sự quan tâm “đau đáu” việc kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, Tổng Bí thư đặt ra câu hỏi: “Chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để thực hiện có kết quả quả Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 lần này về xây dựng, chỉnh đốn Đảng”(9)và chỉ rõ: “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa ... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”(10). Có như vậy, mới giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của Đảng ta.

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đầy tâm huyết, mang tầm cao trí tuệ, kết tinh những giá trị lý luận và thực tiễn, cũng đã luận giải những nguyên tắc sống còn gửi đến toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

TS. Phạm Thị Hoàng Hà

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

---

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr. 37, 38, 22, 33, 33, 33, 369-370, 372, 384, 30.

Phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”: Chủ động, kiên quyết, nghiêm minh hơn nữa

 (TG) - Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cấp cao là con đường ngắn nhất và trực tiếp không chỉ hạ thấp mà thậm chí còn thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính trị và uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước.

Ảnh minh họa

1. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những hành vi tham nhũng, tiêu cực không còn là một khái niệm trừu tượng mà đã biểu hiện rất cụ thể trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, cấp cao. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(1). Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Đảng cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(2).

Thực tế cho thấy, những sự suy thoái nêu trên ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Đó là hành vi lợi dụng quyền lực, biến quyền lực chính trị được nhân dân ủy thác thành “của riêng” để đổi chác, ban phát, mua bán... Bên cạnh đó là sự “a dua” “vào hùa” với những ý kiến lệch lạc, thiếu khách quan, thiếu toàn diện về sự nghiệp đổi mới của đất nước; đòi đa nguyên, đa đảng; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản bội lại lợi ích quốc gia - dân tộc....

Kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cấp cao là con đường ngắn nhất và trực tiếp không chỉ hạ thấp mà thậm chí còn thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính trị và uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước. Nếu  không kịp thời sửa chữa, Đảng sẽ đánh mất vai trò lãnh đạo, đồng thời không còn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Quang cảnh hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát năm 2021. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)

2. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân”(3). Đảng nhìn nhận sự suy thoái này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc...

Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng phải “không lơi tay” trong thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; chủ động, kiên quyết, nghiêm minh hơn nữa, trong đó tập trung vào một số khâu đột phá:

Một là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đảng xác định: “Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng”(4). Theo đó, trong giáo dục phải hết sức coi trọng chất lượng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từng cơ quan, đơn vị phải xây dựng thực chất kế hoạch giáo dục cho mọi đối tượng, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Phương pháp giáo dục phải đa dạng, phong phú, cụ thể, gợi mở để cán bộ, đảng viên tự kiểm điểm, tự rèn luyện, tự tu dưỡng; nâng cao tính chiến đấu, tinh thần thẳng thắn, dũng cảm trong tự phê bình và phê bình, nhất là đối với những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức cách mạng. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.

Coi trọng khâu đột phá trong giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường sức đề kháng ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân. Ngại rèn luyện, lười suy nghĩ, lười học tập là nguyên nhân trực tiếp làm cho cán bộ, đảng viên trở nên lạc hậu, nảy sinh chủ nghĩa cá nhân. Khi chủ nghĩa cá nhân phát triển thì những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được cũng chỉ nhằm phục vụ cho mưu toan, tính toán, vun vén cho bản thân, gia đình, lợi ích nhóm. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất làm suy giảm nghiêm trọng sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của một đảng cách mạng chân chính, hết lòng vì nước vì dân.

Đảng xác định: “Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu”(5). Theo đó, việc tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức phải chú trọng tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, yêu cầu cán bộ càng cao càng phải gương mẫu thực hiện.

Hai là, phát huy hơn nữa vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. 

Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vai trò của công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của sự nghiệp cách mạng cả trước mắt và lâu dài. Mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình để tự giác, gương mẫu thực hiện. Kết luận số 21-KL/TW của Đảng đã nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”(6).

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần có chương trình tổng thể, lộ trình khoa học để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, động viên được sự nỗ lực sáng tạo của các tổ chức, lực lượng. Trên cơ sở đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền cần điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch đội ngũ cán bộ các cấp; có kế hoạch luân chuyển, điều động, cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ một cách khách quan; kiên quyết cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với những người tín nhiệm thấp, phẩm chất năng lực không tương xứng.

Cấp ủy các cấp và các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới; xây dựng hoàn thiện quy chế, quy định về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách; giữa tuyên truyền, giáo dục chính trị với công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác kiểm tra giám sát.

Cấp ủy, tổ chức đảng phải là nơi đầu tiên phát hiện, ngăn ngừa, khắc phục những mầm mống của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. “Ban hành các cơ chế về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; cơ chế bảo vệ, khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực”(7). Kiên quyết đấu tranh với sự phai nhạt lý tưởng cách mạng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân...

 

Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức và cá nhân trong kiểm tra, giám sát cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Quá trình giải quyết vừa đề cao tính tích cực chủ động, tự giác của cá nhân vừa phát huy tốt vai trò của tổ chức với quy trình chặt chẽ, nội dung thống nhất, khoa học. Trên cơ sở những quy định chặt chẽ, cùng với những nội dung cụ thể, những tiêu chí rõ ràng, nhất là hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực được Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII bổ sung, làm rõ, đó là Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm (thay thế QĐ 47-QĐ/TW).

Từng cấp ủy, chi bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải chủ động, tự giác đối chiếu với những quy định, tự liên hệ, kiểm điểm để thấy rõ, thấy hết những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm và có kế hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế khuyến điểm. Đó cũng là quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa mặt tốt và mặt xấu trong mỗi tổ chức, mỗi con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(8).

Việc động viên, yêu cầu phát huy tính chủ động, tự giác của mỗi người phải đi cùng với những biện pháp, quy định chặt chẽ, nghiêm minh; sự kiên quyết phải đi liền với kiên trì, có lộ trình, bởi chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, hám danh, bè phái cục bộ... chắc chắn không thể “làm nhanh, làm gọn” - khắc phục triệt để trong một sớm, một chiều.

Đồng thời, phải “tập trung giám sát cán bộ, đảng viên có lời nói, việc làm biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Uỷ ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý, kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ngay tại cơ sở, chi bộ”(9).

Cùng với đề cao tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, phải đi liền với phát huy tốt vai trò của tổ chức, thông qua các biện pháp mà Trung ương đã bổ sung, làm rõ trong những quy định. Những quy định bắt buộc được triển khai đúng, thực chất sẽ dần tạo nên thói quen tự giác, tích cực cho mỗi cá nhân và tập thể.

Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh phải “khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực”(10). Cùng với tích cực, chủ động phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, nhất là đối với các chủ trương, chính sách tác động đến đông đảo người dân, cần đẩy mạnh phát huy vai trò của dư luận xã hội, vận dụng dư luận xã hội để phát huy các chức năng đánh giá, điều chỉnh các quan hệ xã hội, giáo dục, giám sát tư vấn - phản biện và giải tỏa tâm lý xã hội.

Đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận chính quyền các cấp. Tạo bước chuyển biến thực chất hơn trong giám sát của nhân dân đối với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Xây dựng và thực hiện nghiêm cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực.

Năm là, kịp thời phát hiện, vạch trần mọi âm mưu, luận điệu, hoạt động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, xuyên tạc, chống phá.

Một mặt, vừa phải đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và “xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ đoàn kết nội bộ”(11). Mặt khác, cần phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững trận địa tư tưởng chính trị. Bởi, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên có tác động trực tiếp từ những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, sự dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn, tiêu cực. Vì vậy, cần chủ động các phương án, biện pháp đột phá cụ thể, tổ chức lực lượng thích hợp để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị./.

Đại tá, PGS. TS. DƯƠNG QUANG HIỂN

Trung tá, ThS. NGUYỄN VĂN HÙNG

Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng

_______________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I,  tr.92.

(2) (3) (4) (5) (6) (7) (9) (10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2021, H, 2021, tr.1, 1, 2, 2, 3, 3, 4, 3, 2.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.672.

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2022

Đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối quốc phòng toàn dân

Đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD) là sự nhận thức nhất quán của Đảng ta nhằm xây dựng nền QPTD vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối quốc phòng toàn dân. Ảnh: tuyengiao.vn

Tuy nhiên, thời gian gần đây các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD một cách lạc lõng. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD là nhiệm vụ cấp bách trong tình hình hiện nay.

Âm mưu thâm độc

Mục đích xuyên suốt của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; phủ nhận tính chất “tự vệ chân chính” trong đường lối QPTD của Đảng ta; hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo của chính sách quốc phòng tư sản.

Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD trước hết xuất phát từ các thế lực thù địch, phản động nước ngoài. Chúng vừa trực tiếp tấn công, xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD bằng các cơ quan, tổ chức của mình, vừa gián tiếp nuôi dưỡng, ủng hộ, bảo kê các tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước.

Thứ hai là các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu là số ngụy quân, ngụy quyền. Chúng vừa tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; vừa móc nối, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước cản trở, phá hoại các dự án kinh tế kết hợp quốc phòng. Thứ ba là đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước với bản chất “gió chiều nào xoay chiều ấy”, khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách, họ quay sang chống Đảng và xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD.

Nội dung các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD thể hiện ở nhiều khía cạnh, màu sắc, tính chất, mức độ khác nhau. Chúng cho rằng, Đảng ta tuyệt đối hóa vị trí, vai trò nền QPTD và mâu thuẫn trong chính nhận thức của mình. Chúng đã viện dẫn Văn kiện Đại hội VIII trước đây: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”. Bên cạnh đó, chúng cắt cúp nhận định về xu thế trong quan hệ quốc tế theo Văn kiện Đại hội XIII: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn” là không phù hợp, cho nên không cần khẳng định vị trí của QPTD nữa (!)

Chúng xuyên tạc, phủ nhận các đặc trưng cơ bản nền QPTD, coi chủ trương xây dựng nền QPTD của Việt Nam là “đe dọa hòa bình các nước trong khu vực”. Ở thái cực khác, chúng “khuyên” Việt Nam từ bỏ “4 không” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Chúng phủ nhận nền QPTD ở nước ta “không phải vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành”, “không đếm xỉa đến lợi ích chung của dân tộc”, mà “vì lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Nguy hiểm hơn, chúng phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, tức là phủ nhận tính chính danh, chính pháp của hoạt động trọng yếu này.

Tác hại khôn lường

Phương thức, thủ đoạn của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD luôn được thể hiện tinh vi, thâm hiểm với nhiều chiêu thức. Chúng vừa vu khống, bóp méo, cắt xén sự thật và nhận thức về đường lối QPTD; vừa so sánh, đối lập cực đoan giữa đường lối QPTD của Việt Nam với các nước khác theo chiều hướng khen, chê khác nhau, nhưng tất cả đều đi đến mục đích xuyên tạc, phủ nhận bản chất đường lối đó.

Về phương tiện, rất nhiều nhóm, tổ chức, diễn đàn khác ở nước ngoài triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin hiện đại, internet và hệ thống mạng xã hội để chống phá. Điển hình là các đài phát thanh của người Việt như: Sài Gòn Radio, Việt Nam Califonia, Diễn đàn dân chủ, Việt Nam tự do (ở Mỹ); các báo, tạp chí: Hồn Việt, Quê mẹ, Công luận (ở Pháp); Độc lập, Dân chủ và phát triển, Cánh én (ở Đức); các trang mạng điện tử và các tài khoản mạng xã hội như: Việt Tân, Đàn chim Việt, Dân chủ Việt Nam, Dân làm báo, Quan làm báo...

Các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD đã để lại những hậu quả khôn lường. Đó là sự lệch lạc, suy giảm nhận thức, phai nhạt niềm tin chính trị và lung lạc ý chí của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cách mạng; ảnh hưởng tiêu cực đến nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng và thế trận QPTD. Không những vậy, sự xuyên tạc đó còn làm rạn nứt sự thống nhất, đồng thuận trong Đảng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường sức mạnh niềm tin về đường lối quốc phòng hòa bình, tự vệ chính nghĩa

Rõ ràng, sự xuyên tạc nêu trên của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã cố tình lờ đi một sự thật: Đặc trưng cơ bản nhất của nền QPTD là “hòa bình và tự vệ”, là thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với các nước đế quốc. Việt Nam xây dựng nền QPTD vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nền quốc phòng vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành, tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Chính vì đó, chúng ta cần xác định cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD của Đảng ta hiện nay phải gắn chặt với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; đồng thời gắn với đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

Để góp phần đấu tranh, làm thất bại âm mưu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD của các thế lực thù địch, chúng ta cần chú trọng thực hiện một số giải pháp chủ yếu. Trước hết cần quan tâm nghiên cứu, làm rõ bản chất khoa học và cách mạng của đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta. Đó là đường lối, chính sách quốc phòng tự vệ, chính nghĩa, trân trọng giá trị của độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và khát vọng được sống trong hòa bình của toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam.

Hai là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho toàn dân; giữ gìn, phát huy các chuẩn mực văn hóa của Bộ đội Cụ Hồ và bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam; chủ động, tăng cường thông tin sâu rộng với bạn bè quốc tế về mục đích, bản chất đường lối, chính sách QPTD hòa bình, tự vệ chính nghĩa của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ba là, tiếp tục nhận diện, vạch rõ tính chất sai trái, phản khoa học, phản động của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên.

Bốn là, tiếp tục chăm lo xây dựng nền QPTD vững mạnh, vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không ngừng củng cố thế trận lòng dân vững chắc, tăng cường sức mạnh niềm tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây chính là thành trì, nền tảng chắc chắn nhất để chúng ta chung sức đồng lòng góp phần hiện thực hóa di nguyện cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. /.

Theo qdnd.vn

Vẫn trò “vơ đũa cả nắm”

Sau việc Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương đề nghị kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y và 12 quân nhân có vi phạm, những kẻ đội lốt “dân chủ” lại lợi dụng quy chụp, thổi phồng, “vơ đũa cả nắm”... rêu rao rằng: “Tham nhũng xảy ra ở toàn quân...”(!)

Đây thực ra vẫn là trò cũ soạn lại của các đối tượng chống phá, chỉ khác mức độ, tần suất được các trang mạng phản động đưa tin, giật tít nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, hòng làm suy giảm uy tín, vai trò của quân đội, tiến tới thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.

Thực tế cho thấy, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đều quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thường xuyên chỉ đạo, triển khai, kiểm tra, giám sát... công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong toàn quân và quyết liệt xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệnh, quy định của quân đội. Vì thế, Đảng bộ Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước đánh giá là trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ được nhân dân trân trọng, tin yêu.

Ảnh minh họa/ tuyengiao.vn

Tuy nhiên, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, một số ít quân nhân, trong đó có cả sĩ quan cao cấp, người chỉ huy đơn vị sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống... Những quân nhân vi phạm pháp luật đều được điều tra, xử lý nghiêm minh. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị tiếp tục thực hiện ngày càng quyết liệt ở tất cả các cấp, các ngành với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “không có hạ cánh an toàn” và đã đạt được những kết quả rõ rệt; được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Từ những vấn đề trên cho thấy, sai phạm của một số quân nhân trong thời gian qua liên quan đến tham nhũng chỉ là hiện tượng cá biệt, không phải là hiện tượng phổ biến, càng không phải là bản chất của quân đội như một số đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị cố tình lợi dụng để xuyên tạc, thổi phồng, quy chụp kiểu “vơ đũa cả nắm”. Do đó, mỗi chúng ta trong quá trình tiếp nhận thông tin cần phải hết sức cảnh giác, biết lựa chọn, sàng lọc và xem xét khách quan, toàn diện để tránh mắc mưu của kẻ xấu.

CHÍ THỊNH - BÁO QĐND ONLINE

Phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”.

Lịch sử cho thấy, các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, có những hạn chế, khuyết điểm bên trong nếu không sớm được khắc phục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nguy hiểm hơn là khi bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá...

Ảnh minh họa/ internet

Âm mưu chia rẽ và thách thức bên trong

Ngay khi Chính phủ quyết định tăng cường các lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn TP Hồ Chí Minh và một số địa phương phía Nam, trên mạng xã hội lập tức xuất hiện những bài viết xuyên tạc, trắng trợn vu cáo Đảng, Nhà nước sử dụng quân đội để trấn áp nhân dân miền Nam. Thâm độc hơn, một số tổ chức phản động đã cắt ghép nhiều hình ảnh hoạt động của bộ đội và lu loa rằng “Hà Nội huy động lực lượng quân đội vào Sài Gòn để dẹp loạn nếu dân đói khổ làm loạn...”.

Thực tế cho thấy, hiện nay các thế lực thù địch, phản động ngày càng quyết liệt hơn với các âm mưu thâm độc và tinh vi hơn trong phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi chúng nhận thấy rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muốn phá hoại cách mạng Việt Nam thì phải làm tan rã sức mạnh to lớn đó. Theo đó, âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ hiện nay của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, bôi đen thành tựu thực hiện đường lối, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Chúng “té nước theo mưa”, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền để gây hoài nghi, phân tán nhân tâm, mất lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng đất nước.

Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề xã hội bức xúc, những khó khăn trong đời sống nhân dân để kích động chống đối, hình thành những điểm nóng gây chia rẽ từ bên trong. Chúng lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm lăng và làm “biến dạng” các giá trị văn hóa truyền thống; tạo dựng “ngọn cờ”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, các vấn đề lịch sử... để kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân; giữa các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thúc đẩy hình thành các “khu tự trị”, “nhà nước tự trị”...

Đáng chú ý, chúng tập trung vào phá hoại mối đoàn kết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; nhân dân với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa quân đội và công an... Cùng với chống phá trên các địa bàn chiến lược như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay, chúng đẩy mạnh chống phá gây chia rẽ, mất đoàn kết ở các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương. Internet, mạng xã hội đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng với những thủ đoạn mới rất tinh vi, xảo quyệt để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhìn lại 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đất nước đã đạt được là nền tảng vững chắc củng cố niềm tin, đồng thuận xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, những thách thức đặt ra hiện nay cũng rất lớn, Đảng ta chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”.

Bên cạnh đó, là những vấn đề nảy sinh tất yếu trong quá trình phát triển cần phải tiếp tục nhận thức và giải quyết, như: Phân hóa giàu-nghèo; chênh lệch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế giữa các vùng miền; sự xuống cấp về một số mặt của văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa và những vấn đề lịch sử để lại... Đại hội XIII đánh giá, trong Đảng và hệ thống chính trị, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”; bệnh lãng phí, vô cảm, quan liêu, mất dân chủ... gây bức xúc xã hội và làm suy giảm vai trò hạt nhân đoàn kết của Đảng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Âm mưu chia rẽ từ bên ngoài và những thách thức bên trong có quan hệ chặt chẽ, làm suy giảm sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc của cách mạng nước ta.

Sức mạnh nội sinh và bài học thịnh suy, thành bại từ lịch sử

Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu và giá trị văn hóa cốt lõi; là sức mạnh vô địch trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng thiên tai, địch họa, định bờ cõi, xưng nền văn hiến, nêu cao độc lập, tự chủ. Đây là sức mạnh nội sinh có tính chủ đạo xuyên suốt, bền vững của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”. Đó là chân lý về sức mạnh vô địch của đoàn kết và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Theo Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, đoàn kết là cội nguồn sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược và gốc của đoàn kết là chăm lo, gìn giữ sức dân: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt... Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".

Sức mạnh của nhân dân khi kết thành một khối là sức mạnh vô địch. Đó là chân lý được Nguyễn Trãi khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân như nước”. Tư tưởng này là nền tảng quan trọng hội tụ đại đoàn kết toàn dân của Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đập tan ách đô hộ tàn bạo 20 năm của giặc Minh. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi viết: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Trước đó, đối mặt với giặc Minh xâm lược, nhà Hồ xây thành cao, hào sâu nhưng không xây được khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân nên thất bại là tất yếu. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng từng nói: “Thần không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”.

Thời kỳ Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chia rẽ, không quy tụ được sức mạnh đoàn kết dân tộc; nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước nổ ra song thường mang tính đơn lẻ, thiếu ngọn cờ tập hợp lực lượng toàn dân nên đều thất bại. Đất nước ta lại chìm trong đêm trường nô lệ trăm năm thuộc Pháp.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết vô địch của toàn dân. Những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài học lớn chính là mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lợi ích của dân tộc, nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thế giới đương đại phản ánh sâu sắc sự cạnh tranh gay gắt, kiềm chế lẫn nhau giữa các cường quốc. Xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn chính trị ở nhiều nơi và hiện tại, tình hình chiến sự tại Ukraine đang diễn biến phức tạp... phản ánh rõ nét sự can dự, cạnh tranh của các nước lớn và sự chia rẽ, mâu thuẫn, phân hóa từ bên trong. Do vậy, phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng chính là bảo vệ hòa bình và phát triển bền vững đất nước ta trong “những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” của thế giới hiện nay.

Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể được hiện thực hóa bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Đảng ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề có tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.

Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng, để phòng chống chia rẽ, bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục thấu triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tuyên truyền, tăng cường đồng thuận của các tầng lớp nhân dân với đường lối lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên nắm chắc, dự báo đúng, xử lý chính xác các vấn đề về tư tưởng, mâu thuẫn, bức xúc xã hội hiện nay. Tích cực, chủ động thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm sáng tỏ chủ trương, chính sách, thành tựu đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta. Coi trọng tuyên truyền, giáo dục, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc làm nền tảng tinh thần vững chắc của khối đại đoàn kết trong giai đoạn mới.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; đặc biệt coi trọng chăm lo, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Thường xuyên củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Quán triệt, thực hiện đúng phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.

Bốn là, nâng cao ý thức cảnh giác, thường xuyên nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động. Có các giải pháp, biện pháp mạnh, nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng-mặt trận nóng bỏng hiện nay. Chủ động, nhạy bén, sắc sảo phát hiện, vạch trần bản chất phản động, mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động; giành giữ, bồi đắp tình cảm cách mạng, niềm tin của toàn thể nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng đất nước.

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, kịp thời giải đáp một cách thuyết phục những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn đã và đang đặt ra; cung cấp luận cứ, luận chứng khoa học bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.

Đảng ta là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để phòng chống sự chia rẽ, bảo vệ và phát huy sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, phải phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN HÙNG OANH, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Chính trị

Chống chủ nghĩa cá nhân trong văn học, nghệ thuật

Văn học, nghệ thuật (VHNT) là lĩnh vực tinh thần đặc thù gắn liền với cái tôi chủ thể, sáng tạo bằng cái tôi cá nhân. Cái tôi phải hằn rõ mới có thể làm nên cái cá biệt, cái riêng, vốn là những tiền đề cơ bản để tạo ra cái bản sắc.

Với một tác phẩm nghệ thuật, nếu không có bản sắc thì thiếu sức sống, nhợt nhạt, ít giá trị. Một nền văn hóa lớn cố nhiên vừa là sự tổng cộng số học, vừa là sự tích hợp, tiếp biến của nhiều tác phẩm có bản sắc. Nói tổng cộng, số học là nói về hình thức, cái thấy được; nói sự tích hợp, tiếp biến là nói về giá trị nội dung (nhất là giá trị văn hóa). Các tác phẩm lớn luôn có sức ảnh hưởng, chi phối, thậm chí trở thành “mẫu gốc” vượt cả không gian và thời gian. Nhìn ở góc độ nào cũng thấy sự cần thiết của cá tính nghệ sĩ vì nếu thiếu thì không thể có tác phẩm giá trị. Những nghệ sĩ lớn trước hết là những cá tính độc đáo.

Nghệ sĩ vẫn là con người, phải sống với đời thực, phải sinh hoạt, học tập, quan hệ xã hội... nhưng thiên chức của anh ta là tạo ra “cuộc sống thứ hai”, tức tác phẩm. Anh ta phải sống, phải “đi, về” giữa hai thế giới, thế giới của đời thực và thế giới trong tưởng tượng với những nhân vật, hình tượng, chi tiết...

Người ta hay dùng các từ “phân thân”, “hóa thân”, “nhập thân”... khi nói về quá trình sáng tạo là vì vậy. Dựa vào đặc trưng này, tâm lý học nghệ thuật hiện đại cho rằng nghệ sĩ dễ sa vào tình trạng đa nhân cách, thất thường, dễ ảo tưởng, hay xúc động, cực đoan... Đây sẽ là điểm yếu khi có người thiếu bản lĩnh, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo, lừa gạt... Nếu nghệ sĩ không tỉnh táo, nhà quản lý lại nhìn nhận đơn giản, một chiều sẽ dễ đẩy vấn đề càng đi về phía tiêu cực, có hại...

Ảnh minh họa/ tuyengiao.vn

Quy luật tồn tại và phát triển của VHNT là quy luật của cái riêng, cái đơn nhất với cơ sở gốc là cá tính sáng tạo mà sự hình thành của nó, ngoài năng khiếu chủ quan còn là sự may mắn hội tụ tinh hoa của thời đại, vùng văn hóa, cuộc sống, nghề nghiệp... Khi kết tinh thành tài năng, cá tính sáng tạo lại trở về hòa nhập với đời sống. Các tác phẩm của họ như những hạt lúa vào mẩy luôn có xu hướng níu mình về gốc. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... đều như thế. Không phải ngẫu nhiên, khi già dặn, họ lại thường viết về cái bình thường, nhỏ bé, như: Cây chuối, cây rau, hớp cháo...!

Cá tính sáng tạo không được điều chỉnh, như con ngựa hoang hiếu chiến, hiếu thắng-nếu gọi đích đáng thì đó là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tự phụ, tự cao, nổi loạn, phá phách... Cũng là cây xanh nhưng chưa sâu rễ, nhất là chưa quang hợp nhiều ánh sáng lý tưởng, chưa trải qua bão tố, có thể kết trái nhưng chưa chuyển hóa đủ dinh dưỡng văn hóa... Muốn loại cây này có ích cho đời, chỉ có cách là trồng nó vào vùng đất mới hoặc có chế độ chăm sóc đặc biệt!

Một biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa cá nhân trong lĩnh vực văn nghệ ở mọi thời là thoát ly cuộc sống, xa lạ với tư tưởng, tâm hồn, cách nghĩ, cách cảm của người lao động. Cá biệt lại có những suy nghĩ viết để nổi danh, có tên tuổi, muốn thế phải “gây hấn”, phải viết ngược, phải tạo scandal để gây chú ý. Chả khác gì cô gái không đẹp phải tự “lộ hàng” quảng cáo, “đóng đinh” vào mắt người yếu bóng vía...!!! Cũng vì “ăn xổi” mà “tác phẩm” không chịu kế thừa tinh hoa truyền thống, không chịu tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại nên thiếu chiều sâu, hàm lượng văn hóa thấp, nhạt nhẽo. Nhưng vì sao vẫn có người đọc?

Vì gợi vào tâm lý thích cái lạ, cái bản năng của số ít độc giả, hoặc thủ thuật câu khách, quảng bá giật gân... Cũng dễ hiểu, có nghệ sĩ tài năng trong quá khứ nhưng do bị chi phối của cái tôi cá nhân mà ngày một xa rời lợi ích nhân dân, khư khư tự ôm lấy cái quan niệm cực đoan, ích kỷ, độc đoán, không chịu mở lòng hòa vào thế giới anh em đồng chí, cùng lo, cùng vui với số phận đất nước, cứ tách ra, đi riêng, thậm chí đi ngược.

Nghệ sĩ luôn sống trong cái tôi cô đơn. Cô đơn để suy ngẫm, để tưởng tượng không chỉ về cái tốt, tích cực mà cả cái xấu, cái thấp hèn, tiêu cực. Vì sứ mệnh của nghệ thuật chân chính vẫn phải sáng tạo về cái xấu để người đọc hiểu mà tránh xa nó, tiêu diệt nó. Có khi vì sống quá sâu với nhân vật mà có nghệ sĩ phát ngôn không phải cho cá nhân mình mà nói thay cho nhân vật (xấu), nên dễ gây ngộ nhận. Trường hợp này rất cần sự thông cảm, thể tất với đặc thù sáng tạo. Nhưng khi cái tôi bị đẩy đến cực đoan, vượt ngưỡng, thì một hạn chế của số người này là quá đề cao cá nhân, chỉ mình là nhất, rồi coi thường, coi rẻ sản phẩm nghệ thuật cũng như nhân cách đồng nghiệp.

Thế là dẫn tới quan hệ “cánh hẩu”, khen vống những ai hợp mình, vùi xuống bùn kẻ khác mình, có khi “không được ăn thì đạp đổ”. Nguy hiểm hơn khi có người như vậy lại là thành viên trong hội đồng tuyển chọn, xét duyệt sẽ dẫn tới sự thiếu công bằng, gây ra dư luận không tốt... Với họ sự khen chê chẳng qua cũng vì thỏa mãn cá nhân mình, để làm nổi cá nhân mình. Nguyên nhân của trường hợp này, ngoài sự quá lớn của cái tôi thì còn là do ít hiểu biết về sự mênh mông vô tận của tri thức nhân loại. “Ếch ngồi đáy giếng” là thế, chỉ nhìn thấy bầu trời bằng cái miệng giếng mà thôi!

Cần có những giải pháp khắc phục nào?

Tình trạng nhàn nhạt, quanh quẩn với những đề tài tình yêu, tình dục, tiêu cực xã hội, tha hóa tính người... không sâu sắc, thiếu tính tư tưởng... dẫn tới tình trạng bạn đọc xa dần VHNT. Tự thân nội dung vấn đề trình bày bên trên cũng đã cho thấy hướng khắc phục, để rõ hơn, xin lưu ý:

Một là, rất cần tôn trọng sự tự do sáng tạo, nhưng phải đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường cho văn nghệ sĩ. Văn học là vấn đề tư tưởng. Lịch sử nghệ thuật cho thấy, các nghệ sĩ lớn luôn tự do sáng tạo theo một xu hướng, trường phái nhất định. Sáng tạo theo học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo theo tinh thần nhân văn, tiến bộ, hoàn toàn hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm của nghệ thuật.

Tư tưởng sẽ chuyển hóa để rồi trở thành máu thịt của tác phẩm. Để có tư tưởng phải là quá trình lâu dài, từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc cuộc sống đến thấu cảm (đồng điệu, hòa nhập) vào hình tượng, cộng cảm (tiếp nhận, chia sẻ, lan tỏa) với cõi nhân sinh để có một mẫu số văn hóa chung mới có thể truyền cảm một cách sâu xa (nghệ thuật) tới đối tượng tiếp nhận.

Hai là, nên tổ chức các chuyến đi sâu, dài ngày vào thực tế, người nghệ sĩ sẽ được hiểu kỹ hơn một mảng đời sống, sẽ có những vui buồn thật sự, cảm thông và chia sẻ với người lao động. Nghệ sĩ chỉ có thể kiến trúc mô hình và xây dựng tác phẩm từ mô hình và chất liệu ngoài cuộc sống. Vai trò lãnh đạo của hội chuyên ngành rất quan trọng, ngoài uy tín tài năng thì còn là tài tổ chức. Không chỉ là tổ chức trao đổi, gặp gỡ, thăm hỏi, cơ bản hơn là tổ chức ra các khuynh hướng, các trường phái sáng tạo phù hợp với sự phát triển, từ đó tạo ra các tranh luận học thuật để nảy ra các tư tưởng nghệ thuật mới.

Các nền văn học lớn đều có các trường phái vừa thống nhất, kế thừa, giao thoa, vừa tranh biện, bổ sung, loại trừ để cùng phát triển. Văn hay dở là do người viết. Hiện nay, các triết học trên thế giới đang rất đề cao chủ thể, vấn đề “mỹ học chủ thể” được nói đến nhiều. Nghĩa là coi tác giả mang tính quyết định chất lượng tác phẩm. Nghệ thuật là cái riêng, đơn nhất nên luôn cần đến tài năng. Vốn sống, vốn tri thức văn hóa của nhà văn luôn được coi là vấn đề gốc để "cây nhà văn" cường tráng, khỏe mạnh mà kết thành "quả tác phẩm" giàu chất bổ dưỡng.

Ba là, luật hóa xuất bản, thể chế hóa dưới luật một cách cụ thể về trách nhiệm để tránh xuất bản, phát sóng những văn hóa phẩm kém chất lượng.

Bốn là, tăng cường hơn nữa sự định hướng của các cơ quan quản lý và tiếng nói chuyên môn, chuyên gia cao cấp. Những nơi đó đóng vai trò vừa là cánh tay nối dài của Đảng, vừa là ngôi nhà chung, là điểm tựa của văn nghệ sĩ về tư tưởng, tình cảm, nghiệp vụ, đồng thời là sự khẳng định có trọng lượng học thuật cao nhất về các hiện tượng. Như một lẽ tự nhiên, văn chương phải có người đọc nên nhiều nước phát triển có chiến lược bồi dưỡng các thế hệ độc giả, gọi chung là “mỹ học tiếp nhận”. Có tác phẩm hay nhưng bạn đọc thờ ơ vì không hiểu, không hợp thị hiếu thì thật phí. Nhiều nhà văn nổi tiếng thế giới đều có đối tượng độc giả riêng là vì thế. Có nhà văn ở ta chưa chú ý tới bạn đọc dẫn tới sách chủ yếu vẫn nằm trên giá thư viện.

Năm là, bên cạnh việc tiếp thu lý luận văn nghệ nước ngoài, cơ bản hơn cần có chiến lược nghiên cứu tiếp thu, kế thừa, phát triển lý luận văn nghệ của cha ông. Xin nhắc lại lời Bác Hồ, sáng suốt, sâu sắc, tinh tế vô cùng: “Muốn thấy hết cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta, thì phải đừng bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây... phải dựa trên tiêu chuẩn của ta. Tiêu chuẩn ấy là gì? Đó là nền mỹ học ẩn chứa trong thực tiễn truyền thống nghệ thuật dân gian, dân tộc” (1).

Chúng ta đang cố gắng làm giàu thêm lý luận VHNT bằng cách tiếp thu cái hợp lý của lý luận nước ngoài. Đấy là một hướng đi đúng. Nhưng thiết nghĩ, song hành với hướng đó và cơ bản hơn là phải đi sâu vào vốn cổ của ta để tìm tinh hoa lý luận truyền thống cha ông mà kế thừa, phát triển, nâng cao cho phù hợp với hôm nay. Bởi lý thuyết nước ngoài bao giờ cũng có độ vênh lệch, chưa nói đến có sự áp đặt, khiên cưỡng.

Mỹ học của cả một nền văn học dân gian rồi văn học trung đại là cả một kho vàng tư tưởng còn chìm trong các sáng tác văn chương. Chỉ có điều phải bỏ công tìm tòi, suy ngẫm bởi chúng ẩn sâu trong các hình tượng thẩm mỹ chứ không hiển hiện triết lý khô cứng ra bên ngoài. Chỉ xin đề cập tới một Nguyễn Trãi mà chúng tôi tìm hiểu đã thấy ở nhà tư tưởng lớn này cũng có hẳn một hệ mỹ học riêng với: Tư tưởng mỹ học về con người văn hóa, về thiên nhiên, về phạm trù cái đẹp; một quan niệm sứ mệnh nghệ thuật vì con người; quan niệm hiện đại về quy luật vận động đặc thù của nghệ thuật; một mỹ học chủ thể; một mỹ học tiếp nhận(2).

Không chỉ ở Nguyễn Trãi mà còn cả một kho tàng mỹ học mà cha ông đã học tập, tiếp thu, kế thừa, kết tinh, phát triển và nâng cao một cách tuyệt vời mỹ học truyền thống, thể hiện tinh tế trong trước tác. Đó là cả một mỏ vàng mà hậu thế chúng ta phải tìm tòi, khai thác, tinh luyện. Truyền thống lý luận của ta, ngoài những hiển ngôn trên văn bản còn thường thể hiện dưới dạng tác phẩm mà ngay ở thời hiện đại cũng có, ví như câu thơ hay của Phạm Tiến Duật: “Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay” phải chăng còn có ý về chủ thể sáng tạo: Nghệ sĩ phải quên mình, làm mới mình để sáng tạo. Tác phẩm nghệ thuật phải có chức năng làm đẹp và nuôi dưỡng sự sống!

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ

(1) Mịch Quang: Khơi nguồn mỹ học dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004, tr.8, 9.

(2) Xin xem Nguyễn Thanh Tú: Ba tiếng cười trào phúng trong văn học Việt Nam (Nguyễn Trãi-Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nguyễn Khuyến), Nxb Hội Nhà văn, năm 2017 và Nguyễn Thanh Tú: Nguyễn Trãi-Tư tưởng mỹ học mang giá trị văn hóa Việt Nam đặc sắc, độc đáo, đi trước thời đại, Tạp chí Thơ, số 1, 2-2017.

 

Xuyên tạc việc khởi tố bị can Nguyễn Phương Hằng để bôi nhọ chính quyền

Ngày 24/3, Công an TP Hồ Chí Minh đã tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với bà Nguyễn Phương Hằng, sinh năm 1971, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam, trú tại 17-19 Ngô Đức Kế, phường Bến Nghé, quận 1, TP Hồ Chí Minh. Ngay sau đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng để xuyên tạc, hướng lái bản chất vụ việc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước.

Bị can Nguyễn Phương Hằng tại cơ quan Công an

Một số tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ; các hãng truyền thông hải ngoại vốn thiếu thiện chí với Việt Nam như RFA, RFI, VOA… đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh, video có nội dung xuyên tạc, sai trái. Điển hình trên mạng facebook của Việt Tân vu cáo: “Công an sử dụng Điều 331 để khởi tố bà Hằng là sai trái”, rồi suy diễn thành việc “doanh nhân đối đầu với thế lực chính trị như việc trứng chọi đá”. Bài viết đưa ra luận điệu hết sức lố bịch rằng: “Ở Việt Nam này luật pháp không tồn tại”, “quyền tự do dân chủ bị bóp nghẹt”...

Việt Tân vẫn lập lại thói quen xấu, diễn trò lố khó bỏ khi đưa ra cái gọi là “khảo sát quan điểm độc giả về việc Công an TP Hồ Chí Minh bắt tạm giam bà Nguyễn Phương Hằng”. Ở một bài khác, trang này dẫn một bài viết xuyên tạc rằng “Những điều luật phục vụ thủ đoạn của chính quyền cộng sản”, cho rằng việc khởi tố bà Hằng theo điều luật trên là “áp đặt một cách tùy tiện”!

Còn RFA thì tìm cách phỏng vấn một số cá nhân với cái tên nghe rất mĩ miều như “nhà dân chủ”, “nhà phản biện”, “luật sư nhân quyền”… nhưng kỳ thực là số đối tượng phản động, chối bỏ quê hương, phản bội Tổ quốc, sống lưu vong ở nước ngoài. Được “hỏi ý kiến”, số này cho rằng, việc bắt bà Nguyễn Phương Hằng theo Điều 331 là “không hợp lý”, từ đó ra sức miệt thị Nhà nước, chính quyền.

Những hành vi trên của một số tổ chức, cá nhân thù địch, phản động không nằm ngoài các hoạt động chống phá Việt Nam, các đối tượng vin vào việc cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, bắt tạm giam bị can Nguyễn Phương Hằng để hạ bệ, bôi nhọ hệ thống pháp luật Việt Nam; đả phá, phỉ báng chính quyền các cấp, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền, tiến tới quy kết, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Nguy hại hơn, các thế lực thù địch, phản động còn cổ xúy, xúi giục, thậm chí ca ngợi, tán dương các hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để bôi nhọ, lăng mạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của các tổ chức, cá nhân, gây tổn hại đến truyền thống văn hóa, thuần phong, mỹ tục của dân tộc; làm giảm vị thế, uy tín cũng như hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.

Cũng như các quốc gia trên thế giới, đối với Việt Nam, một mặt, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do của nhân dân, mặt khác pháp luật xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, không để các hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền, lợi ích cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân”. Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Theo đó, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” như sau:

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.

Điều 331, Bộ luật Hình sự là sự cụ thể hóa Hiến pháp, thể theo nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; giúp điều chỉnh, ngăn chặn, có chế tài đối với các hành vi vi phạm, lệch chuẩn trong các quan hệ xã hội, ngăn ngừa những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trở lại vụ án liên quan đến bị can Nguyễn Phương Hằng, theo điều tra ban đầu, Công an TP Hồ Chí Minh xác định, từ tháng 3/2021 cho đến trước khi bị bắt tạm giam, bà Nguyễn Phương Hằng đã thông qua nhiều tài khoản Youtube, Facebook, Tiktok, phát ngôn trực tiếp qua mạng internet, đưa các thông tin chưa được kiểm chứng, xúc phạm đến uy tín, danh dự của nhiều tổ chức, cá nhân, gây bất bình dư luận. Hành vi của bà Nguyễn Phương Hằng vừa xâm phạm danh dự, uy tín của các công dân, vừa ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hóa dân tộc, gây bất bình trong dư luận.

Trước những hành vi trên, từ ngày 15/2 đến 24/3/2022, cơ quan CSĐT Công an TP Hồ Chí Minh đã mời làm việc 4 lần đối với bà Nguyễn Phương Hằng để cảnh báo, nhắc nhở, khuyến cáo, răn đe và yêu cầu bà Hằng chấm dứt việc lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, sử dụng mạng xã hội thực hiện hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, bà Nguyễn Phương Hằng cố ý né tránh, không chấp hành. Công an TP Hồ Chí Minh xác định, bà Hằng đã quản lý, sử dụng 12 kênh trên mạng xã hội để trực tiếp livestream với nội dung xuyên tạc đời tư của nhiều người. Dù nhiều lần được cơ quan chức năng nhắc nhở nhưng bà Hằng vẫn cố ý né tránh không chấp hành mà tiếp tục các hành vi trên. Bên cạnh đó, bà Nguyễn Phương Hằng tổ chức các hoạt động tụ tập đông người tại TP Hồ Chí Minh và tại một số tỉnh, thành khác gây phức tạp về an ninh trật tự, bức xúc dư luận địa phương. Trước đó, ngày 8/4/2021, Sở Thông tin và Truyền thông TP Hồ Chí Minh đã xử phạt hành chính đối với bà Nguyễn Phương Hằng về hành vi cung cấp thông tin sai sự thật, xúc phạm uy tín của UBND tỉnh Bình Thuận. Cùng với đó, từ năm 2021 đến nay, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương, Cơ quan CSĐT Công an TP Hồ Chí Minh thụ lý đơn thư của nhiều cá nhân tố cáo bà Nguyễn Phương Hằng, gồm: nhà báo Nguyễn Đức Hiển, nhà báo Đặng Thị Hàn Ni, bà Đinh Thị Lan, ca sĩ Vy Oanh, vợ chồng ca sĩ Thủy Tiên - Công Vinh… Các cá nhân trên tố cáo bà Nguyễn Phương Hằng về các hành vi đưa tin sai sự thật, vu khống, làm nhục nguời khác, lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…

Việc cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, bắt tạm giam đối với bị can Nguyễn Phương Hằng về hành vi “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự để điều tra, làm rõ hành vi phạm pháp là tuân thủ theo quy định của pháp luật, không có chuyện chính quyền các cấp “bóp nghẹt quyền tự do dân chủ” như luận điệu của các thế lực xấu.

Hiện nay, việc mỗi người thiết lập và sử dụng các tài khoản mạng xã hội là xu thế tất yếu. Pháp luật luôn bảo vệ việc biểu đạt tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của bản thân trên tinh thần xây dựng, thượng tôn pháp luật, theo đúng chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa của dân tộc. Đảm bảo điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhưng ngược lại, những tổ chức, cá nhân sử dụng mạng xã hội với mục đích xấu, động cơ không trong sáng, lấy cớ quyền tự do dân chủ của mình mà lại xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khác hay xâm phạm đến tổ chức, xâm phạm đến Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài tương ứng. Mặt khác, mạng xã hội cũng là nơi các thế lực thù địch, phản cách mạng, phần tử cơ hội chính trị sử dụng để thực hiện những thủ đoạn xấu nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, do đó, cần sự tỉnh táo để không bị lôi kéo, kích động.

Chu Xuân Đại Thắng - Báo điện tử CAND

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...