(TG) - Trong gần 40 năm đổi mới - xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, chúng ta đã làm tốt việc xây dựng, hình thành nhiều thể chế, tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả của thể chế trong thúc đẩy văn minh xã hội chưa thể hiện rõ ràng. Thành tựu về kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững là không thể phủ nhận, song về cơ bản, nhiều khía cạnh của đời sống xã hội còn mang nặng dấu ấn của văn minh nông nghiệp.
NHỮNG ĐIỂM NGHẼN CƠ BẢN VỀ THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN HIỆN NAY
Một là, sự đồng bộ giữa thể
chế phát triển chính trị, văn hóa - xã hội chưa bắt nhịp với thể chế phát triển
kinh tế, hội nhập.
Mặc dù đạt nhiều thành tựu
to lớn về quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển ở nước ta trong những
năm qua, tuy nhiên, những biểu hiện trên bề mặt đời sống xã hội như: sự suy
thoái của một bộ phận cán bộ đảng viên; tình trạng tham nhũng, tiêu cực; sự xuống
cấp về đạo đức gia đình, xã hội, nghề nghiệp... đã và đang là “những hồi chuông
cảnh báo” về các nguy cơ “đổ vỡ niềm tin” của nhân dân vào hệ thống chính trị,
vào những giá trị, chuẩn mực mà chúng ta chủ trương lan tỏa... Đây là hệ quả của
quá trình xây dựng, hoàn thện thể chế phát triển chính trị, văn hóa, xã hội
chưa được chú trọng đúng mức và thúc đẩy song hành với quá trình xây dựng thể
chế phát triển kinh tế. Bệnh thành tích với quy mô kinh tế giản đơn đang cản trở
chúng ta chú ý sự phát triển một cách toàn diện, văn minh.
Hai là, tính đồng bộ của thể
chế mới cơ bản đạt được sự tương thích với nguyên tắc phổ thông của kinh tế thị
trường, nhưng chưa bám sát và cụ thể hóa thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Những thể chế phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa, hội nhập thời gian qua được xây dựng, ban hành, đổi
mới, bổ sung ngày càng đầy đủ, bao quát hơn, nhiều mặt đã bám sát các nguyên tắc
của nền kinh tế thị trường hiện đại. Tuy nhiên, đó mới là những nguyên tắc phổ
thông nhất mà bất kỳ nền kinh tế thị trường nào cũng phải tuân thủ. Vấn đề đặt
ra ở tầm sâu sắc hơn là thể chế phát triển Việt Nam còn cần phải là tiền đề để
hiện thực hóa cụ thể giá trị XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Những
giá trị cơ bản dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phải được thể
hiện trước hết từ trong hệ thống thể chế. Quyền làm chủ của nhân dân phải được
triển khai từ thể chế ra bề mặt xã hội. Bản sắc văn hóa, những giá trị tốt đẹp
phải được thể hiện trong hệ thống chính trị. Các tinh hoa văn hóa phải dần trở
thành nền tảng tinh thần và động lực của đời sống xã hội...
Ba là, tác động cộng hưởng,
cùng chiều tích cực trong thúc đẩy văn minh xã hội theo hướng tiến bộ của thể
chế phát triển chưa rõ nét.
Trong gần 40 năm đổi mới -
xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, chúng ta đã làm tốt việc xây dựng,
hình thành nhiều thể chế, tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả của thể chế trong thúc
đẩy văn minh xã hội chưa thể hiện rõ ràng. Thành tựu về kinh tế, xóa đói, giảm
nghèo, phát triển bền vững là không thể phủ nhận, song về cơ bản, nhiều khía cạnh
của đời sống xã hội còn mang nặng dấu ấn của văn minh nông nghiệp. Văn minh
công nghiệp hiện đại, văn minh sinh thái chưa đạt được thành tựu rõ ràng. Đời sống
xã hội, văn minh đô thị chưa thể hiện tính ưu việt nổi trội… Đây chính là hệ quả
của việc thiếu tác động cộng hưởng cùng chiều của thể chế phát triển. Văn minh
tinh thần chưa theo kịp văn minh vật chất nên đang có nguy cơ bị lai căng, tha
hóa, biến dạng cả về văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Đây là hạn chế rất
lớn xét về dài hạn và bám sát mục tiêu XHCN tiến bộ.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN Ở
VIỆT NAM
Tiếp tục đổi mới tư duy xây dựng thể chế phát triển
Thực tiễn luôn phát triển
và biến đổi không ngừng, thực tiễn là tiền đề để hình thành tư duy thể chế.
Chính vì vậy, cách thức tư duy, nếp nghĩ, sự quan tâm tới lợi ích khách quan sẽ
chi phối quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế của các chủ thể quản trị quốc
gia. Tư duy hạn hẹp do tầm nhìn và năng lực hạn chế cũng sẽ ảnh hưởng tới chất
lượng thể chế phát triển. Vì vậy, việc đổi mới tư duy theo yêu cầu của trình độ
phát triển hiện đại, với tầm nhìn dài hạn và cách tiếp cận trăm năm là hết sức
cấp thiết.
Ở cấp độ thứ nhất, cần dứt
khoát chuyển đổi tư duy xây dựng và hoàn thiện thể chế theo cách nghĩ cũ, cơ chế
vận hành nền kinh tế kiểu cũ… sang tư duy hướng tới sự phục vụ xã hội, phục vụ
sự nghiệp phát triển chung. Cách tư duy mới, phù hợp với sự phát triển của thể
chế kinh tế thị trường hiện đại là lấy sự phát triển của mọi mặt đời sống xã hội,
sự thúc đẩy văn minh, sự bền vững của chế độ chính trị làm mục đích tự thân của
mọi quá trình xây dựng thể chế; không trì trệ, không bảo thủ là biện pháp tự chủ
trong thực hiện quyền lực quản trị quốc gia.
Cấp độ tiếp theo, nhanh
chóng và thường xuyên chuyển từ tư duy thụ động sang tư duy chủ động, vượt trước,
dẫn dắt sự phát triển bằng những giải pháp thể chế dẫn dắt là chủ yếu thay cho
thể chế bám đuổi là chủ yếu. Với thể chế dẫn dắt, đòi hỏi tư duy xây dựng thể
chế phải có tính dự báo, trên cơ sở tiếp thu chọn lọc những bài học kinh nghiệm
thất bại của các quá trình phát triển đi trước, của các quốc gia đã từng vấp phải.
Cấp độ sâu hơn, thực hiện
chuyển đổi tư duy xây dựng thể chế phát triển đơn tuyến, tiếp cận ngành, thiên
về tính cục bộ sang tư duy cộng hưởng, liên ngành, lợi ích toàn diện và dài hạn.
Thời gian qua, sở dĩ có sự trùng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả trong thể chế
phát triển trên nhiều lĩnh vực ở nước ta, có nguyên nhân từ các tiếp cận đơn
tuyến trong tư duy làm thể chế; thể hiện ngay trong ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Việc xây dựng thể chế đòi hỏi
cộng đồng trách nhiệm của cả hệ thống các chủ thể quản trị quốc gia, không phải
chỉ là việc của Trung ương, cũng không chỉ là tín hiệu từ địa phương. Trung
ương và địa phương đều có trách nhiệm xây dựng tư duy dẫn dắt, mở đường, khai
phóng nguồn lực. Như vậy, việc tháo gỡ các điểm nghẽn là sự tháo gỡ đồng loạt,
thay vì địa phương nào cũng xin cơ chế đặc thù.
Cùng với đó, việc phát triển
kinh tế là trọng tâm, xây dựng đảng và hệ thống chính trị là then chốt, phát
triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội phải trở thành tư duy thường
trực trong xây dựng thể chế phát triển và các hệ sinh thái thể chế phát triển.
Nhóm giải pháp hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh
tế
Thứ nhất, rà soát toàn diện
theo cấu trúc nhóm thể chế nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt đến quá trình
sản xuất, lưu thông, trao đổi, hội nhập.
Các nhóm thể chế theo sinh
thái cấu trúc gồm các bộ phận chủ yếu: 1) Nhóm thể chế tạo lập nền tảng chế độ
kinh tế (sở hữu, quyền tài sản; quyền tự do kinh doanh; quyền hưởng lợi; quyền
được bảo hộ tài sản…). Cần hình thành hệ sinh thái thể chế đồng bộ và đơn giản
hóa theo hướng tối thiểu chi phí để đảm bảo lợi ích tối đa. Đây chính là cách đảm
bảo sự phù hợp với nguyên tắc thị trường trong vận hành thể chế về tạo lập nền
tảng chế độ kinh tế của quốc gia. 2) Nhóm thể chế tạo lập môi trường bình
đẳng, thông thoáng, loại trừ được sự cản trở và điểm nghẽn. Cạnh tranh hiệu quả
trong nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ đến năm 2030, tầm nhìn 2045 cần
phải có lộ trình thực hiện cụ thể để xác lập các thể chế, nhằm thúc đẩy phát
triển của công nghệ, nâng cao năng suất lao động xã hội, tiết kiệm nguồn lực;
thúc đẩy việc làm và mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu phong phú của xã hội; thực
hiện các tầng an sinh xã hội hiệu quả; kiểm soát được các cấu trúc quyền lực thị
trường, chống những “bàn tay to” thao túng thị trường... 3) Nhóm thể chế tiếp cận
nguồn lực. Cần có một hệ thống sinh thái về tiếp cận nguồn lực nhất quán đối với
các nguồn lực cơ bản cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, hệ thống sinh
thái thể chế về tiếp cận nguồn lực còn hạn chế về tính đồng bộ, thiếu bình đẳng
giữa các chủ thể. 4) Nhóm thể chế tạo lập sinh thái tuân thủ pháp luật trong hoạt
động kinh tế. Nhóm thể chế này cần phải được rà soát sớm và bổ sung ngay những
chế tài thiết thực, cân bằng lợi ích, kinh tế hóa thay vì hình sự hóa các quan
hệ kinh tế.
Thứ hai, đi đôi với việc rà
soát, cần chú trọng đảm bảo sự tương thích, tác động cộng hưởng, cùng chiều
tích cực của hệ thống thể chế phát triển kinh tế, đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống
thể chế phát triển kinh tế không chỉ ở một khâu, một lĩnh vực mà phải trên tổng
thể quá trình tái sản xuất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều này
đòi hỏi tầm nhìn bao quát, sâu sắc, xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện thể
chế. Để đảm bảo được tính tổng thể, còn phải chú ý sự đồng bộ của tổng thể thể
chế, hệ sinh thái thể chế phát triển kinh tế, đảm bảo sự ăn khớp giữa nguồn lực
và khả năng sử dụng nguồn lực; giữa năng lực sản xuất với thị trường tiêu thụ;
giữa lưu thông, phân phối.
Nhóm giải pháp hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
chính trị
Thứ nhất, nhóm thể chế tiếp
tục phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực hiệu quả trong thể chế đảng duy
nhất cầm quyền.
Về hệ thể chế này cần tiếp
tục bổ sung các thành tố thể chế đảm bảo bịt những kẽ hở dẫn đến sự lạm dụng, lợi
dụng, thu vén lợi ích cá nhân. Thể chế về phát huy dân chủ trong cơ chế tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách phải gắn với phương thức tạo ra người đứng đầu
trách nhiệm, khách quan, công tâm. Hệ thống thể chế phòng ngừa lạm dụng quyền lực,
kiểm soát quyền lực thường xuyên, từ sớm, từ xa hiện nay mới chủ yếu dừng ở hệ
các quy định đối với đảng viên; hệ thống kiểm soát quyền lực kinh tế, quyền lực
chính trị của doanh nghiệp tư nhân còn là khoảng trống chưa có hệ sinh thái thể
chế thực hiện. Quyền lực dù ở khu vực công hay tư đều phải đặt dưới sự kiểm
soát bằng thể chế; công năng thể chế kiểm soát quyền lực phải được thực hiện
bao trùm đối với toàn bộ các chủ thể trong hệ thống chính trị cũng như quyền lực
kinh tế.
Thứ hai, nhóm thể chế thực
hiện phân cấp, phân quyền trong sự phát triển của nền quản trị quốc gia tốt.
Việc phân cấp, phân quyền
là tất yếu trong quá trình phát triển theo chiều hướng xã hội văn minh. Càng đi
sâu đổi mới hệ thống chính trị càng đòi hỏi sự phân cấp, phân quyền rõ ràng,
phù hợp với quy luật phát triển. Tuy vậy, giới hạn, phạm vi và cách thức phân cấp,
phân quyền để đảm bảo thực chất, có khả năng triển khai, đòi hỏi phải có thể chế
dẫn dắt. Những cấu trúc thể chế quy định về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn,
nghĩa vụ trong thực hiện phân cấp cần được căn cứ vào nhiệm vụ phát triển của cấp
được phân quyền. Đi đôi với phân cấp, phân quyền, thể chế về phối hợp trong thực
hiện quyền phân cấp và thể chế về trách nhiệm của quyền được phân cấp với đảm bảo
quản trị quốc gia thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng cần được thực hiện
trên cơ sở thể chế. Hệ thống thể chế như vậy để việc phối hợp sử dụng quyền lực
trong quản trị quốc gia phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, thống nhất hơn dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Nhóm giải pháp hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
văn hóa - xã hội
Một là, về mặt tư duy. Thực
hiện tư duy tổng hợp về phát triển văn hóa cùng với các lĩnh vực đời sống xã hội
để thúc đẩy văn minh. Văn hóa phát triển là tiền đề để dịch chuyển văn minh xã
hội. Do đó, thể chế phát triển văn hóa - xã hội cần được đặt song hành với việc
hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế, phát triển chính trị, thậm chí có những
khâu, những lĩnh vực của nền tảng văn hóa, văn minh cần phải được thúc đẩy mang
tính dẫn dắt sự phát triển kinh tế và đời sống chính trị.
Hai là, về biện pháp thực hiện.
Xây dựng hệ sinh thái thể chế phát triển văn hóa Việt Nam văn minh, giàu bản sắc,
độc lập tự chủ từ chủ trương, luật pháp, chiến lược, chương trình, đề án, nguồn
lực và tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở rà soát lại những
thể chế đang có, phát hiện những bất cập, điểm nghẽn, khuyết thiếu để bổ sung,
điều chỉnh, ban hành và xây dựng mới các thể chế theo nguyên tắc mới, thích hợp
với thị trường ở khâu huy động và phân bổ nguồn lực, tránh thị trường hóa thể
chế dẫn đến sự thương mại hóa vai trò nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Bên cạnh việc xây dựng thể
chế thúc đẩy hệ giá trị văn hóa mới, việc thể chế hóa, công nhận chính thức việc
giữ gìn, phát huy, thừa nhận một cách đầy đủ những giá trị truyền thống còn phù
hợp với tính nhân văn, nhân bản của con người, thúc đẩy văn minh xã hội cũng cần
phải được chú trọng.
Về mặt xã hội, hệ thống thể
chế về thực hiện an sinh xã hội nhiều tầng cần được rà soát và hoàn thiện. Việc
kết hợp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với vai trò xã hội trong thực hiện
chức năng của Nhà nước hiện nay là khoảng trống thể chế cần sớm được hoàn thiện.
Về thể chế phát triển con
người toàn diện, ngoài hệ thống luật pháp về giáo dục - đào tạo, phát triển con
người văn minh trong môi trường thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải
có hệ sinh thái thể chế toàn diện, đồng bộ hơn so với việc chỉ chú trọng vào luật
giáo dục. Hệ thống pháp luật về giáo dục mới chỉ là một phần mang tính kỹ thuật
tổ chức việc đào tạo, giáo dục mà chưa bao quát được phát triển hệ giá trị con
người và tạo bệ đỡ để phát triển con người Việt Nam toàn diện. Do đó, cùng với
việc hoàn thiện đầy đủ hơn, nhất quán hơn hệ thống pháp luật về giáo dục, còn cần
phải bổ sung hệ sinh thái thể chế cho phát triển con người toàn diện, đồng bộ với
sinh thái thể chế phát triển văn hóa, xây dựng giá trị con người. Hệ sinh thái
thể chế phát triển con người phải tạo tiền đề để các môi trường giáo dục và xã
hội cùng phối hợp thực hiện đức dục, trí dục, mỹ dục, thể dục.
Nhóm giải pháp hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
hội nhập
Một là, nhóm thể chế tạo lập
sự kết nối giữa mục tiêu đẩy mạnh hội nhập với xây dựng toàn diện nền độc lập,
tự chủ Việt Nam trong môi trường thể chế quốc tế luôn biến đổi.
Nền độc lập tự chủ trên
lĩnh vực hội nhập cần có thể chế về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ;
xây dựng chế độ chính trị bền vững độc lập, tự chủ; xây dựng nền văn hiến, văn
minh độc lập tự chủ trong tiến trình không ngừng hội nhập. Đây là những mối
quan hệ lớn, khó. Muốn nâng cao hiệu quả, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc thì
tính độc lập tự chủ càng phải được khẳng định. Muốn đứng vững trong môi trường
thể chế thế giới luôn biến động thì càng cần phải trở nên độc lập, tự chủ. Vì vậy,
vấn đề trước mắt và lâu dài là tiếp tục hoàn thiện hệ sinh thái thể chế để tranh
thủ khai thác tối đa các cơ hội từ những hiệp định, thỏa thuận, thể chế quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết, công nhận
Hai là, nhóm thể chế dẫn dắt
sự lựa chọn mục tiêu rõ ràng để phát triển trong hội nhập cần được rà soát và
chuẩn bị cho những thập kỷ tới.
Thuộc nhóm này có rất nhiều
khía cạnh cần phải có thể chế cụ thể. Chẳng hạn như: những quy định và tiêu chí
lựa chọn ngành, định hướng mục tiêu phát triển ngành, lĩnh vực nhất quán với chủ
trương lớn xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ, để Việt Nam trở thành
nước phát triển trên con đường XHCN, định vị sự phát triển và trình độ phát triển
của Việt Nam trong tầm nhìn khu vực, quốc tế. Những thể chế mang tính nguyên tắc
lựa chọn ngành, vùng ưu tiên, định hướng ưu đãi, dẫn dắt đầu tư phát triển theo
kế hoạch, chiến lược tổng thể, dài hạn của Việt Nam cần được rà soát và bổ
sung. Hiện nay, thể chế về đầu tư nước ngoài của Việt Nam mới hướng mạnh vào
thu hút mà chưa đủ mạnh để dẫn dắt theo ý tưởng phát triển của chúng ta. Đây là
vấn đề cần có sự chuyển hướng nhanh hơn nữa.
Ảnh minh họa |
Nhóm giải pháp đồng bộ giữa các thể chế phát triển phù hợp với
nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập
Đi đôi với việc rà soát,
hoàn thiện từng bộ phận thể chế phát triển, việc rà soát để đảm bảo sự đồng bộ
của tổng thể hệ thống phát triển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 cũng cần
được thực hiện một cách toàn diện. Việc đồng bộ hóa thể chế phát triển phù hợp
với trình độ nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập theo định hướng
XHCN là yêu cầu cấp bách và thực hiện với lộ trình cụ thể. Trước mắt, trong lộ
trình 5-10 năm tới, việc rà soát tổng thể thể chế phát triển để tháo gỡ những
điểm trùng chéo, loại trừ, triệt tiêu nhau trong các quy định thể chế theo từng
nhóm sinh thái thể chế và trên phạm vi hệ sinh thái thể chế phát triển cần được
triển khai dứt khoát, có kế hoạch cụ thể.
Song song với việc rà soát,
cần xây dựng, ban hành, bổ sung những thể chế còn khuyết thiếu trên các lĩnh vực
thể chế phát triển như đã nêu trên. Không chờ kết quả rà soát xong mới thực hiện
hoàn thiện. Cần thực hiện phương châm song song, quyết liệt tháo gỡ ngay những
điểm nghẽn đang nổi cộm về phát triển kinh tế đã bộc lộ.
Trong tầm nhìn dài hạn hơn,
việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thất bại của các quốc gia đi trước về những
kịch bản phát triển, tính trước những nguy cơ trên mọi mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa - xã hội, hội nhập quốc tế để có những thể chế phòng ngừa từ sớm, từ xa
nhằm chủ động giữ vững chế độ chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Những nhóm thể chế thuộc diện phòng ngừa này cần được suy tính để tích hợp, lồng
ghép vào những thể chế phát triển đang được sửa chữa, bổ sung, điều chỉnh trong
những năm trước mắt đến 2030.
Tóm lại, với những điểm nghẽn
thể chế hiện nay, các giải pháp nêu trên rất cần được triển khai một cách đồng
bộ, để từ đó có được sự phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn nữa./.
Việc phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng đảng và hệ thống chính trị là then chốt, phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội phải trở thành tư duy thường trực trong xây dựng thể chế phát triển và các hệ sinh thái thể chế phát triển.
PGS. TS. NGÔ TUẤN NGHĨA
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét