[CAND] Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) tại Việt Nam những năm gần đây đã đạt kết quả quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc trong xây dựng hệ thống chính trị, môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, củng cố được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, được quốc tế đánh giá cao.
Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2023
Chế độ một Đảng cầm quyền không phải nguyên nhân của tham nhũng
Tuy nhiên, thế lực
thù địch, phản động thời gian qua vẫn cố gieo rắc quan điểm sai trái cho rằng:
Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tham nhũng; tham nhũng là
thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chỉ khi nào ở Việt
Nam bỏ chế độ độc đảng lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng
mới được dẹp bỏ.
Vậy tại sao có thể khẳng định quan điểm nói trên là sai
trái?
Chế độ đa
đảng không phải là phép màu để chống tham nhũng
Trước hết, tham nhũng
là căn bệnh do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra. Có nhà nước là
có nguy cơ sinh ra căn bệnh tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó là xã hội
chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đi theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng.
Chỉ khi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng
bộ, ngày càng hoàn thiện thì quyền lực sẽ không thể bị lạm dụng, tình trạng
tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Như vậy, chế độ một đảng lãnh
đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng và cũng không
phải là không thể chống được tham nhũng.
Nếu ai đó cho rằng,
thực hiện chế độ đa đảng sẽ tạo ra phép màu để triệt tiêu được tham nhũng là
hoàn toàn sai lầm. Việt Nam chúng ta đứng thứ 80 trong bảng xếp hạng 180 quốc
gia, vùng lãnh thổ về chỉ số CPI. Như thế, có 100 quốc gia, vùng lãnh thổ xếp dưới
chúng ta trong bảng xếp hạng này. Mà trong đó, đại đa số quốc gia này theo chế
độ đa đảng. Vậy tại sao các quốc gia, vùng lãnh thổ có hệ thống chính trị đa
đảng phái vẫn có hiệu quả phòng, chống tham nhũng kém Việt Nam?
Như thế có thể thấy
hiệu quả phòng, chống tham nhũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng lãnh đạo
hay chế độ đa đảng mà phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống pháp luật, năng lực
quản trị của Nhà nước và phẩm chất của cán bộ, công chức. Sẽ thật ngây thơ khi
ai đó tin rằng, cứ có đa đảng thì sẽ có sự kiểm soát quyền lực tốt hơn, dẫn tới
triệt tiêu tham nhũng. Tại những quốc gia đa đảng phái thì vẫn luôn có sự thỏa
thuận quyền lực của các đảng phái đại diện cho giai cấp thống trị xã hội. Dù có
bao nhiêu cuộc bầu cử thì quyền lực nhà nước vẫn không thoát khỏi sự thống trị
của các đảng phái này. Vì thế, tại các quốc gia đó, nguy cơ và thực tế tham
nhũng vẫn luôn là thách thức hiện hữu.
Đảng ta đủ
năng lực lãnh đạo để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Thế còn tại Việt Nam,
một quốc gia do một đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam thì sao? Thực tế
cho thấy, bản chất cách mạng, tính tiền phong và năng lực lãnh đạo, tổ chức
thực tiễn là nhân tố cơ bản quyết định, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ
khả năng để chống tham nhũng hiệu quả.
Theo báo cáo của TI,
trong lúc tình hình không được cải thiện hoặc tồi tệ hơn ở 86% các quốc gia
trong bảng xếp hạng thì chỉ số CPI của Việt Nam liên tục được cải thiện. Việt
Nam là một trong những quốc gia có tiến bộ nổi trội, với 42 điểm, tăng tới 9
điểm kể từ năm 2018.
Đó là kết quả của cả
một quá trình PCTNTC rất quyết liệt do Đảng ta lãnh đạo. Với nhận thức, tham
nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, Đảng ta xác định đấu tranh
PCTNTC là một việc làm cần thết, tất yếu, hợp lòng dân và xu thế phát triển của
nhân loại. Vì vậy, tiếp nối kết quả từ những nhiệm kỳ trước, Đại hội XIII của
Đảng đề ra phương châm: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và
hiệu quả hơn”.
Dấu ấn nổi bật là
việc Bộ Chính trị quyết định bổ sung, mở rộng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng để chỉ đạo cả công tác
phòng, chống tiêu cực. Từ đây, cuộc đấu tranh PCTNTC bước sang giai đoạn mới,
đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ hơn giữa “xây” và “chống”, giữa PCTNTC với
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay sau đó, Ban chỉ đạo đã quyết định đưa một số vụ
việc tiêu cực vào diện theo dõi, chỉ đạo, qua đó, các cơ quan chức năng đã làm
rõ, xử lý nghiêm hành vi tiêu cực của nhiều cán bộ, đảng viên.
Công tác điều tra, xử
lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ quan
chức năng đã chủ động phát hiện, quyết liệt đấu tranh, khởi tố, điều tra, xử lý
nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, xảy
ra trên diện rộng, trong các lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, vi
phạm có tính hệ thống, có tổ chức, cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả
nước đã khởi tố, điều tra hơn 7.800 vụ án, hơn 15.200 bị can về tội tham nhũng,
chức vụ, kinh tế. Vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đến nay đã khởi tố 30 vụ án,
109 bị can (trong đó 25 địa phương đã khởi tố 28 vụ án, 71 bị can); vụ án xảy
ra trong lĩnh vực đăng kiểm đã khởi tố 80 vụ án, 613 bị can tại Cục Đăng kiểm
Việt Nam, 98 trung tâm và chi cục đăng kiểm; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ
Ngoại giao) đã khởi tố 54 bị can...
Qua xử lý các sai
phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực đã xử lý trách nhiệm chính trị của
người đứng đầu trong việc để xảy ra vi phạm, khuyết điểm trong lĩnh vực được
phân công quản lý, phụ trách theo đúng nguyên tắc “không có vùng cấm, không có
ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đã xem xét, cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu,
bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương
đã bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi
bị kỷ luật. Đảng ta đã “nói đi đôi với làm”, chống tham nhũng, tiêu cực đã “tắm
từ trên đầu xuống”, không phải chỉ “tắm từ vai xuống” như có ý kiến băn khoăn,
lo lắng thời gian trước.
Trước đây, trong một
số vụ án tham nhũng, tiêu cực, việc điều tra, xử lý gặp khó khăn, vướng mắc,
chậm tiến độ do có một số đối tượng liên quan bỏ trốn. Tuy nhiên, vừa qua, các
cơ quan chức năng đã điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt, tuyên án xử phạt tù
đối với cả những đối tượng đang bỏ trốn, như trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu
thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Công ty
Cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC). Điều này sẽ tạo tiền đề để xử lý nhiều đối tượng
bỏ trốn ở một số vụ án khác, là hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, dù có trốn ra
nước ngoài cũng không thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật.
Tham nhũng chính sách
là vấn đề nan giải với mọi quốc gia. Thời gian qua, Đảng ta đã chỉ đạo việc
quan tâm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay từ khâu tham
mưu, ban hành chính sách. Ban chỉ đạo Trung ương về PCTNTC đã chỉ đạo Đảng đoàn
Quốc hội xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành quy định về kiểm soát quyền lực,
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng
pháp luật.
Việc kiểm soát quyền
lực, PCTNTC trong hoạt động của chính các cơ quan có chức năng PCTNTC được đẩy
mạnh. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan chức năng đã xử lý kỷ
luật hơn 300 cán bộ, công chức trong các cơ quan PCTNTC có sai phạm; nhiều
trường hợp trong số đó bị xử lý hình sự. Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao đã khởi tố, điều tra hơn 40 vụ án tham nhũng, chức vụ, tiêu cực xảy
ra trong hoạt động tư pháp. Đặc biệt là, đã xử lý kỷ luật đối với 3 lãnh đạo,
nguyên lãnh đạo thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước. Từ đầu năm 2023 đến
nay, đã khởi tố, điều tra 2 thiếu tướng công an, 15 cán bộ thanh tra, giám sát
của các cơ quan: Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước,
chánh thanh tra tỉnh...
Cùng với đó, để khắc
phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, sự ra đời của ban chỉ đạo cấp tỉnh về
PCTNTC chính là nhân tố mới giúp công tác PCTNTC ở địa phương, cơ sở có sự
chuyển biến tích cực.
Như thế, có thể khẳng
định luận điểm cho rằng “tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ xã hội chủ
nghĩa, của chế độ một đảng cầm quyền” và “chế độ một đảng không chống được tham
nhũng” là hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn. Tham nhũng gắn với cá nhân
có quyền lực và tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với
nhà nước và quyền lực. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân nên xét về bản chất, không có cơ sở sinh ra tham nhũng. Tham nhũng,
tiêu cực về bản chất là tàn dư của chế độ cũ, xã hội cũ, con người cũ. Chỉ
những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện mới
sa vào chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất, rồi việc thiếu cơ chế kiểm tra,
giám sát của tổ chức, của nhân dân mới dễ làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
Hiệu quả của việc PCTNTC đến đâu là do sức đề kháng của chế độ xã hội mới-xã hội
chủ nghĩa, do năng lực của Đảng cầm quyền, do chất lượng hoàn thiện chính sách,
pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phụ thuộc vào phẩm chất của đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
HỒ QUANG PHƯƠNG
Thủ tướng chủ trì Hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống COVID-19
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Hội nghị tập trung đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp, ngành, địa phương trong phòng, chống dịch.
Sáng 29/10, Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch
COVID-19 (Ban Chỉ đạo) chủ trì Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống dịch COVID-19. |
Hội nghị được tổ chức
trực tuyến tại điểm cầu Trụ sở Chính phủ với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Dự Hội nghị có Trưởng
Ban Dân vận Trung ương Bùi Thị Minh Hoài; các Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trần
Hồng Hà; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; Bí thư các tỉnh ủy, thành ủy;
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đại diện Tổ chức Y tế
thế giới (WHO) tại Việt Nam.
Mở đầu Hội nghị, Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính nhắc lại những khó khăn, phức tạp trong công tác
phòng, chống đại dịch COVID-19, nhất là thời điểm đầu đại dịch và khi dịch bùng
phát mạnh, trong điều kiện Việt Nam thiếu thốn nhiều mặt, chưa có kinh nghiệm,
đại dịch chưa có tiền lệ...
Hội nghị trực tuyến đến các tỉnh, thành phố. |
Nhìn lại thời gian hơn
3 năm phòng, chống dịch, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, tháng
12/2019, thế giới ghi nhận ca mắc COVID-19 đầu tiên; ngày 23/1/2020, Việt Nam
ghi nhận ca mắc COVID-19 đầu tiên.
Trước tình dịch, ngày
30/3/2020, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi tới đồng
bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và người Việt ở nước ngoài cùng chung tay trong
trận chiến chống dịch COVID-19.
Ngay sau đó, ngày
31/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16, thực hiện cách ly toàn
xã hội trong vòng 15 ngày để phòng, chống dịch.
Tuy vậy, sau hơn 1 năm
chống dịch, tháng 4/2021, cả nước đối mặt với đợt dịch thứ 4, chủ đạo là biến
chủng Delta có độc lực cao, tốc độ lây lan nhanh, xâm nhập sâu trong cộng đồng
tại 62/63 tỉnh, thành phố, gây hậu quả rất nặng nề, đặc biệt là tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Ngày 29/7/2021 lần thứ
hai, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi phòng chống đại dịch COVID-19.
Hưởng ứng lời kêu gọi của
Tổng Bí thư, sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ Chính trị, sự đồng hành của Quốc hội,
với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại
thành công”, cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành, địa phương, người dân,
doanh nghiệp, người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế chung sức, đòng
lòng phòng, chống đại dịch.
Trong số đó, tháng
7/2021, Việt Nam đưa ra công thức phòng, chống dịch COVID-19; đẩy mạnh thực hiện
thực hiện chiến lược vaccine, tổ chức tiêm vaccine phòng, chống dịch COVID-19
miễn phí cho toàn dân.
“Đây là vấn đề mấu chốt,
có tính chất quyết định đi đến thắng lợi trong phòng, chống dịch COVID-19. Việt
Nam đi sau về trước; mở cửa kinh tế, đón khách du lịch, tổ chức SEA Games 31...
Đến ngày 20/10/2023, COVID-19 đã chính thức được chuyển phân loại từ bệnh truyền
nhiễm nhóm A sang nhóm B tại Việt Nam”, Thủ tướng khẳng định.
Thủ tướng Chính phủ đề
nghị Hội nghị tập trung đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
của các cấp, ngành, địa phương trong phòng, chống dịch.
Hội nghị tập trung đánh
giá kết quả đã đạt được; cách làm hay, các phong trào, mô hình hiệu quả trong
phòng, chống dịch; phân tích tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
đúc rút trong phòng, chống dịch để từ đó chuẩn bị tốt hơn nhằm ứng phó với những
sự kiện khẩn cấp y tế cộng đồng; vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các lĩnh vực
khác của đời sống kinh tế-xã hội.
Theo Vietnam+
Cảnh giác trước chiêu trò lợi dụng phản biện xã hội để chống phá
[CAND] Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ủng hộ, khuyến khích phản biện xã hội và coi đây là biện pháp quan trọng để tiếp thu mọi ý kiến của các tầng lớp nhân dân nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, thời gian qua, bên cạnh những ý
kiến đóng góp tích cực, trên tinh thần xây dựng thì vẫn còn một số tổ chức, cá
nhân lợi dụng phản biện xã hội để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước,
chế độ ta.
Đội lốt phản biện xã hội để phá bĩnh
Phản biện xã hội là sự nhận xét, đánh giá, nêu
chính kiến khẳng định những nội dung đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án, đồng
thời phát hiện những điểm chưa chính xác, chưa phù hợp với đời sống xã hội và
lợi ích chính đáng của nhân dân để kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem
xét sửa đổi, bổ sung cho chính xác và phù hợp. Khác với đả kích, nói xấu, bôi
nhọ mang tính chống đối, lật đổ, xuyên tạc sự thật, phản biện xã hội mang tính
xây dựng, hỗ trợ, vì mục tiêu chung.
Thực tế cho thấy, cùng với nhiều đóng góp chân
thành có ý thức xây dựng của nhân dân thì một số kẻ đã lợi dụng phản biện xã
hội để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước. Các thế lực thù địch lợi dụng
phản biện xã hội để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối
kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập. Từ “phản biện” đến phản đối và
chống đối, mục đích sâu xa là bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam.
Trước đây, một số hội, đoàn tự xưng như “Hội
Nhà báo độc lập”, “Văn đoàn độc lập Việt Nam” (thành lập trái pháp luật) đã rêu
rao, tự cho mình là tổ chức nghề nghiệp nhưng thực chất là tổ chức đối lập, mở
ra các diễn đàn để thu hút các nhà báo, nhà văn tham gia nhưng thực chất là lợi
dụng phản biện xã hội đã đăng tải những bài viết xuyên tạc đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thời gian gần đây, lợi dụng chủ trương lấy ý
kiến góp ý của nhân dân về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), đã xuất hiện một số
trang mạng xã hội, blogger tham gia với động cơ xấu, cố tình đánh tráo bản
chất, làm cho người dân hiểu sai từ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu” thành “đất đai là độc quyền sở hữu của Nhà nước”. Thậm
chí, số đối tượng xấu còn xuyên tạc rằng việc sửa luật nhằm tạo “lợi ích nhóm”
cho quan chức, từ đó cố tình kích động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Bên cạnh đó, một số đối tượng giả danh phản
biện thông qua các “thư ngỏ”, “thư kiến nghị” gửi các cấp, ngành, gửi các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đăng tải trên các mạng xã hội, trả lời phỏng vấn
của các báo, đài nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam để trình bày ý kiến cá
nhân về những chủ trương, chính sách. Họ cố tình miệt thị, công kích, bóp méo
sự thật, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Mặt
khác, họ thổi phồng những tồn tại, hạn chế của đời sống xã hội, quy chụp cực
đoan rằng mọi hạn chế và tiêu cực ở nước ta là do sự trì trệ về chính trị và
“do độc Đảng”.
Một số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, cực
đoan còn núp bóng “nhà phản biện” có hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên
truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước như Phạm Đoan Trang,
Nguyễn Lân Thắng… Sau khi các đối tượng bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt giam,
xét xử theo quy định của pháp luật thì một số tổ chức, hội nhóm phản động kêu
oan, bẻ lái, tẩy trắng tội danh rồi vu cáo chính quyền Việt Nam “bịt miệng
người bất đồng chính kiến”, “ở Việt Nam có quyền tự do phản biện nhưng chỉ phản
biện theo hướng của đảng”…
Những âm mưu, thủ đoạn trên đối lập hoàn toàn
với phản biện xã hội mà chính là phá bĩnh xã hội. Thực chất phá bĩnh xã hội là
công cụ được các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, số tổ chức, hội nhóm
cơ hội chính trị, cực đoan, các hãng truyền thông hải ngoại thiếu thiện chí với
Việt Nam thường xuyên sử dụng.
Thông qua các trang mạng xã hội, các cá nhân,
tổ chức thù địch, phản động luôn tìm mọi cách tán phát những thông tin sai
trái, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống và chụp mũ, đả kích, nói xấu; tùy tiện đưa
ra luận điệu sai trái, xuyên tạc đánh lừa nhận thức dư luận, phản đối chế độ và
chính sách hiện hành; phủ nhận thành tựu và sự phát triển của đất nước, gây
nghi ngờ, tạo tâm lý hoang mang trong nhân dân, gây chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, phá hoại lòng tin, sự đồng thuận xã hội trong nước, hạ thấp vị thế, uy
tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Không thể xuyên tạc quyền tự do phản biện ở Việt Nam
Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của
phản biện xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng lắng nghe và tiếp thu những
ý kiến phản biện của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội.
Điều đó được thể hiện rõ trong Hiến pháp, hệ thống chính sách, pháp luật Việt
Nam. Theo đó, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội”.
Đối tượng phản biện xã hội là tất cả những
hoạt động có liên quan đến tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân, liên quan
đến công quyền. Tất cả các hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị
từ bộ máy Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội đều thuộc đối tượng phản
biện xã hội. Đối tượng phản biện xã hội còn là các chính sách do cơ quan công
quyền đề xuất ban hành trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội như: Kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, quốc
phòng - an ninh…
Mọi công dân, tổ chức xã hội ở Việt Nam là
những chủ thể phản biện xã hội. Ở nước ta hiện nay, các tổ chức xã hội tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau và cũng có những nét đặc thù nhất định bao gồm:
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp và tổ chức xã hội. Các hình thức phản biện xã hội hết sức
đa dạng, phong phú phụ thuộc vào chủ thể và đối tượng cũng như nội dung phản
biện xã hội.
Đối với chủ thể là các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội thì thông qua các hình thức đối thoại, hội nghị, tư vấn …
Chẳng hạn, đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì có thể có những hình thức như:
Tổ chức cuộc họp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường
trực; Ban Chấp hành, Ban thường vụ các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức các
hội nghị chuyên đề của các hội đồng tư vấn, ban tư vấn, các chuyên gia, nhà
khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn; các hoạt động chuyên môn có liên quan
của các tổ chức thành viên; tổ chức để nhân dân góp ý kiến phản biện xã hội vào
các dự thảo của cơ quan, tổ chức Đảng, nhà nước.
Đối với người dân, thực hiện quyền phản biện
bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua lấy ý kiến cử tri của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp; thông qua sinh hoạt thôn, bản, tổ dân phố; qua các tổ chức
chính trị - xã hội mà người dân là một thành viên của tổ chức đó… Ngoài ra,
nhân dân vẫn có thể tự mình phản biện bằng con đường gửi thư, gửi ý kiến đến
các cấp có thẩm quyền, thông qua báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng
đăng tải ý kiến của mình.
Hoạt động phản biện xã hội ở Việt Nam diễn ra
sôi nổi, sinh động, đã phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham
gia của nhân dân. Ngay sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức phản biện xã hội đối với các dự án luật
như: Bộ luật Lao động (sửa đổi); Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của
Bộ Giáo dục và Đào tạo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
năm 2015; Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)… Đối với dự án luật quan
trọng, thu hút nhiều ý kiến, phản biện của nhân dân như dự án Luật Đất đai, chỉ
trong vòng 2 tháng rưỡi (từ 3/1/2023 đến 15/3/2023), Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã nhận được hơn 12 triệu lượt phản biện, góp ý thể hiện sự quan tâm đặc
biệt của nhân dân.
Đặc biệt, trong tham gia xây dựng dự thảo các
văn kiện trình Ðại hội XIII của Ðảng có những con số hết sức ấn tượng về phản
biện xã hội thực hiện trong nhiệm kỳ Ðại hội XII. Trong đó, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 10 chương trình giám sát về các vấn đề,
lĩnh vực có ý nghĩa cấp bách đối với toàn xã hội; phản biện một số văn bản quan
trọng của Ðảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành. Thông qua việc lấy ý kiến
cho thấy Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Như vậy, ở Việt Nam, phản biện xã hội là một
trong những quyền của công dân, mọi ý kiến đóng góp xây dựng tập thể, đất nước
đều được tôn trọng, ghi nhận, song pháp luật Việt Nam cũng nghiêm trị hành vi
lợi dụng phản biện xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân. Phản biện xã
hội để tìm ra điểm bất hợp lý của chính sách nhằm giải quyết vấn đề phát sinh,
từ đó có thể kiến nghị điều chỉnh hay thậm chí là hủy bỏ chính sách đó, đề xuất
chính sách mới, phù hợp hơn một cách thiết thực, hiệu quả nhất, vì lợi ích
chung, sự tiến bộ khác xa bản chất, thủ đoạn phá bĩnh xã hội mà các thế lực thù
địch đã và đang làm.
Trịnh Thúy - Chu Thắng
Thứ Năm, 26 tháng 10, 2023
Tự tu chỉnh, “đánh thắng kẻ địch bên trong của mỗi chúng ta"
[QĐND] Biểu hiện suy thoái hàng đầu về đạo đức, lối sống đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ ra là: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”. Vì vậy, đấu tranh đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân là góp phần làm trong sạch hóa, lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Sáng
ngời một thế hệ tự nguyện cống hiến, hy sinh
Chủ nghĩa cá nhân là
căn bệnh hoàn toàn trái với phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Bất
cứ ai đã đi theo Đảng, theo cách mạng, nhất là những người cán bộ, đảng viên
thì luôn phải tâm nguyện suốt đời hy sinh, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của
Đảng, của Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vì hạnh phúc của nhân dân. Trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng đó,
nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên đã một lòng một dạ luôn đặt lợi ích của tập thể,
của đất nước lên trên hết, trước hết.
Là đảng viên cộng sản,
chắc hẳn ai cũng biết phẩm chất kiên trung, ngời sáng của biết bao chiến sĩ
cách mạng trong các ngục tù, mặc dù trước sự tra tấn dã man của đế quốc thực
dân, hay trước khi ra pháp trường bước lên máy chém vẫn một lòng một dạ trung
thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, thương yêu đồng đội, hết lòng vì lợi ích
chung, nên “Chết còn trút áo cho nhau/ Miếng cơm dành để người sau ấm lòng”
(thơ Tố Hữu).
Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh hoàn toàn trái với
phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Tranh minh họa: cand.com.vn |
Trong suốt chặng đường
cách mạng của đất nước ta, nhất là trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, tự
do của dân tộc đã xuất hiện hàng vạn cán bộ, đảng viên tiêu biểu về phẩm chất
vì lợi ích tập thể mà quên đi lợi ích cá nhân. Phẩm chất đó là rất đáng trân
trọng, là cao cả nhất, là thước đo không gì sánh nổi về tư tưởng vì nước, vì dân
mà quên thân, quên lợi ích cá nhân.
Không có sách báo nào
viết hết, ca ngợi hết những giá trị to lớn của hàng vạn tấm gương chủ nghĩa anh
hùng cách mạng; anh hùng, liệt sĩ và biết bao cán bộ, chiến sĩ trong suốt chặng
đường cách mạng hơn 93 năm qua do Đảng, Bác Hồ lãnh đạo. Tiêu biểu là từ các
lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, các chiến sĩ cách mạng tiền bối như: Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Hà Huy Tập, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh
Khai, Lý Tự Trọng... đến những anh hùng sáng ngời tinh thần bất khuất như:
Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị Thắng, Đinh Núp... Họ đã trở thành biểu tượng cao đẹp
về tấm lòng trung kiên, dũng cảm, vì nước, vì dân, được muôn đời thế hệ sau
ngợi ca, học tập và noi theo.
Những
triệu chứng nguy hại của bệnh cá nhân chủ nghĩa thời nay
Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy, trên chặng đường lịch sử cách mạng, chúng ta cũng đau lòng khi một bộ
phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu bản lĩnh, bị vật
chất, đồng tiền cám dỗ... đã đi ngược lại lợi ích tập thể, lợi ích của đất nước,
coi lợi ích cá nhân là trên hết, từ đó làm mất thanh danh, phẩm chất người đảng
viên cộng sản.
Những năm gần đây,
nhiều cán bộ lãnh đạo cấp bộ, ngành, Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương cũng bị lợi ích cá nhân chi phối, nên đã vi phạm kỷ luật
"nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng" đã bị kỷ luật và xử lý
hình sự. Cũng do sa vào bệnh cá nhân chủ nghĩa, lại thiếu ý thức tu dưỡng rèn
luyện, vì lợi ích tầm thường mà hàng chục cán bộ đã nhận hối lộ với số tiền
lớn, rất lớn, đặc biệt lớn trong vụ án “chuyến bay giải cứu” và vụ "Việt
Á" mới đây, gây bức xúc dư luận.
Ở mỗi cương vị và trên
từng lĩnh vực, căn bệnh cá nhân chủ nghĩa nó diễn ra khác nhau, kể cả về tính
chất và quy mô. Nhưng thông thường, biểu hiện cá nhân chủ nghĩa thường bộc lộ ở
một số cán bộ, đảng viên đảm nhiệm cương vị chủ chốt cơ quan, đơn vị, địa
phương, đó là:
Thứ nhất, làm việc gì
của cơ quan, đơn vị, địa phương cũng tính đến “được cái gì” mang về cho bản
thân.
Thứ hai, củng cố địa
vị, bố trí những vị trí chủ chốt cán bộ, đảng viên thuộc quyền lãnh đạo, quản
lý của mình là những người thân cận để bảo đảm sự thăng tiến cho cá nhân mình
được thuận lợi.
Thứ ba, xây dựng những
cán bộ nguồn nằm trong quy hoạch là những người thân tín hoặc những người “cánh
hẩu” với mình để được ban ơn về sau hoặc tiếp tục có điều kiện cất nhắc, giúp
đỡ con cháu mình sau này.
Thứ tư, chỉ đạo cơ
quan, đơn vị, địa phương mình xây dựng “chính sách nội bộ” về một việc gì đó mà
“lách luật” được để mang lại lợi ích cho một nhóm người. Ví như xây biệt thự liền
kề, nhà ở... để bán giá cao nhưng thực chất chênh lệch hàng chục lần so với giá
thị trường cho những cán bộ “có nhiều cống hiến”, trong đó có bản thân mình.
Thứ năm, luôn ích kỷ,
so bì, tính toán thiệt hơn; thấy đồng đội học hành, công tác thành đạt thì khó
chịu, kèn cựa, nói xấu sau lưng, tìm cách hạ uy tín những cán bộ, đảng viên
không thuộc “gu” của mình, gây mất đoàn kết nội bộ hoặc dùng các mánh khóe để
vô hiệu hóa đồng đội, cấp dưới của mình.
Kiên
quyết phòng ngừa, đấu tranh đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân
Phê phán tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa, hay chủ nghĩa cá nhân, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói và viết về căn bệnh nguy hiểm này. Người
cho rằng, chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng độc hại, tồn tại dai dẳng
trong mỗi người cán bộ, đảng viên, luôn chờ cơ hội để trỗi dậy; là nguy cơ làm
suy yếu Đảng, giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng. Người coi chủ nghĩa cá
nhân là giặc nội xâm, kẻ thù của những người cách mạng. Bác Hồ nói: “Địch bên
ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá từ trong phá ra”, do
vậy, theo Bác: “Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài thì trước hết phải đánh thắng
kẻ địch bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”.
Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XII) chỉ ra đối với cán bộ, đảng viên, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện ở
chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham
nhũng, tiêu cực; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước
những khó khăn, bức xúc của dân. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn,
thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết
với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ
Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần nhận thức đúng đắn rằng “Đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Bởi
vì, theo Bác, “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không
trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”. Vấn đề là ở chỗ, như Bác
Hồ đã chỉ ra: “Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi
ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi
ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”.
Việc cần làm hiện nay
là các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về tự phòng, chống bệnh cá nhân chủ
nghĩa. Đặc biệt đối với cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị
phải nhận thức và xác định đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân là nhiệm vụ
không nghỉ, là lương tâm, trách nhiệm và ý thức tự giác của mình trước Đảng, Tổ
quốc và nhân dân; dù trong điều kiện nào cũng đặt lợi ích tập thể lên trên hết,
thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cần kiệm, liêm chính, chí công
vô tư”. Nếu cán bộ, đảng viên ở cương vị chủ chốt các cấp thực hiện đúng lời
dạy của Bác, chắc chắn sẽ giáo dục, cảm hóa, thuyết phục được mọi thành viên
trong cơ quan, đơn vị cũng đề cao trách nhiệm tự phê phán, đấu tranh chống tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa.
Một giải pháp quan
trọng nữa là các cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong cơ quan, đơn vị
thường xuyên theo định kỳ sinh hoạt tự phê bình và phê bình, trong đó chú trọng
xem xét đến từng cá nhân, tập thể có biểu hiện cá nhân chủ nghĩa không? Nếu có
thì phải giáo dục, ngăn chặn, đấu tranh nghiêm túc để loại bỏ ngay từ khi còn
manh nha, nhen nhóm.
Tiếp tục đẩy mạnh
tuyên truyền, quán triệt thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn, quy định
về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QĐ/TW ngày
25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;
các quy định về phòng, chống tham nhũng, lãng phí...
Qua đó làm cho mỗi cán
bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn về trách nhiệm rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu của
mình, luôn công tâm vì lợi ích tập thể, lợi ích của đất nước, trong đó có lợi
ích chính đáng của mình. Không gì hơn là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu
chỉnh, tự vượt qua và chiến thắng chính mình trước những cám dỗ để không sa vào
chủ nghĩa cá nhân.
Vấn đề có tính lâu dài
đòi hỏi chúng ta phải làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường sớm có tư tưởng lành mạnh, trong sáng, không vụ lợi, lấy
mục đích lợi ích tập thể, lợi ích đất nước, lợi ích của nhân dân để xác định
động cơ phấn đấu, rèn luyện, phục vụ khi trở thành người cán bộ, đảng viên của
Đảng.
Đại
tá VŨ VIẾT XÔ, Ban Tuyên giáo, Hội Cựu chiến binh TP Hà Nội
Thứ Tư, 25 tháng 10, 2023
Bộ trưởng Tô Lâm: Sử dụng thẻ căn cước không bị theo dõi và không thể theo dõi được!
[CAND] Đây là khẳng định của Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an tại phiên thảo luận về dự án Luật Căn cước, sáng 25/10.
Bộ trưởng Tô Lâm cho biết,
ngay sau Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội, Bộ Công an đã trực tiếp phối hợp với Ủy ban
Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) của Quốc hội và các cơ quan hữu quan tổ chức
nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Căn cước theo ý kiến của đại biểu
Quốc hội (ĐBQH).
Dự thảo luật sau khi tiếp
thu, chỉnh lý cũng đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xem xét, cho ý kiến
tại Phiên họp thứ 25 (tháng 8/2023), sau đó tiếp tục được hoàn thiện trình Hội
nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 4 (tháng 8/2023) và gửi xin ý kiến các
Đoàn ĐBQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan hữu quan
theo quy định.
Bộ trưởng Tô Lâm phát biểu tại phiên thảo luận. |
"Đến nay, dự thảo
luật đã được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu tối đa ý kiến của các ĐBQH và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đều có ý kiến thống nhất cao với dự thảo luật", Bộ
trưởng thông tin.
Theo Bộ trưởng Tô Lâm,
để thực hiện nhiệm vụ mà Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) 10 năm
2021 – 2030 của Đại hội Đảng khóa XIII đã đề ra là đẩy mạnh xây dựng Chính phủ
điện tử, tiến tới Chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ
các cơ quan Nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng
và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn,
nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà
ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển KTXH và đời sống nhân dân, bảo đảm
100% dân số được đăng ký và quản lý thì việc xây dựng dự án Luật Căn cước có ý
nghĩa rất quan trọng và cần thiết.
Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, dự án luật còn có ý nghĩa trong việc phát huy giá trị của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước. |
Dự án luật này không chỉ
đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về căn cước, đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu về
đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân mà còn có ý nghĩa trong việc
phát huy giá trị của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước,
giá trị và tiện ích của thẻ căn cước, căn cước điện tử trong phát triển KTXH;
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về chuyển đổi số ở nước ta theo mục tiêu của Đề án số
06 Chính phủ đang triển khai thực hiện.
Bộ trưởng cho biết, dự
thảo luật đã được rà soát, chỉnh lý kỹ lưỡng về các thuật ngữ, kỹ thuật soạn thảo
văn bản và các nhóm vấn đề lớn mà nhiều ĐBQH có ý kiến về giải thích từ ngữ; về
quyền và nghĩa vụ của công dân và người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch
đang sinh sống tại Việt Nam về căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ
sở dữ liệu căn cước; về các hành vi bị nghiêm cấm; về thông tin trong Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư; về thu thập, cập nhật, quản lý, kết nối, chia sẻ, khai
thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; về thu thập, cập nhật, kết
nối, chia sẻ, khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước; về quy định
liên quan đến thẻ căn cước; về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt
Nam chưa xác định được quốc tịch đang sinh sống tại Việt Nam được cấp giấy chứng
nhận căn cước; về căn cước điện tử.
Quang cảnh hội trường. |
Qua thảo luận tại hội
trường hôm nay, các ĐBQH đã phát biểu về một số vấn đề; trong đó, đều cơ bản thống
nhất với tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật. Ngoài các vấn
đề chính nêu trên, các ĐBQH còn góp ý vào những điều luật cụ thể của dự thảo Luật
Căn cước như quy định về giải thích từ ngữ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư,
Cơ sở dữ liệu căn cước, căn cước điện tử; việc thu thập, cập nhật thông tin và
quản lý, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu; về
thẩm quyền cấp, thời hạn cấp và đổi thẻ...
"Cũng có đại biểu
băn khoăn việc sử dụng chip hoặc QR code có bị theo dõi không? Bộ Công an khẳng
định, việc sử dụng thẻ căn cước có gắn chip điện tử và QR code, căn cước điện tử
không bị theo dõi và không thể theo dõi được. Bộ Công an cũng như bất cứ cơ
quan nào cũng không được và không thể làm việc này; đồng thời chúng tôi cũng có
trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn cho công dân - những người sử dụng thẻ
không bị theo dõi bởi bất cứ cơ quan nào" - Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh và
cho biết, đây có thể là thông tin mà những đối tượng xấu tung ra gây hoang mang
cho nhân dân.
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương phát biểu kết luận. |
Thay mặt cơ quan chủ
trì soạn thảo dự án luật, Bộ trưởng Tô Lâm trân trọng cảm ơn các ý kiến quý báu
của ĐBQH, đồng thời khẳng định, Bộ Công an sẽ tiếp tục phối hợp UBQPAN và các
cơ quan liên quan của Quốc hội có tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật
Căn cước cho phù hợp, bảo đảm hoàn thiện về nội dung và kỹ thuật văn bản để
trình Quốc hội thông qua.
Kết lại nội dung thảo
luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, các ĐBQH đánh giá cao sự
chủ động, tích cực của cơ quan chủ trì thẩm tra cũng như cơ quan soạn thảo, cơ
bản tán thành với nội dung dự thảo luật qua tiếp thu, chỉnh lý và báo cáo tiếp
thu, giải trình. Phó Chủ tịch Quốc hội yêu cầu, Tổng Thư ký Quốc hội tổng hợp đầy
đủ các ý kiến; UBQPAN cần khẩn trương chủ trì, phối hợp các cơ quan tổ chức tiếp
thu ý kiến ĐBQH, giải trình và chỉnh lý dự thảo luật, hoàn thiện báo cáo trình
Quốc hội xem xét thông qua bảo đảm chất lượng, đúng chương trình kỳ họp và tạo
được sự đồng thuận cao.
Quỳnh Vinh
Thứ Ba, 24 tháng 10, 2023
Gỡ khó trong việc dạy học và kiểm tra đánh giá các môn tích hợp
[CAND] Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) vừa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc dạy các môn tích hợp nhằm từng bước gỡ khó cho giáo viên và các nhà trường.
Thời gian qua, nhiều giáo viên ở các địa phương
trên cả nước tiếp tục bày tỏ lo lắng, băn khoăn về việc dạy học các môn tích hợp
ở cấp Trung học cơ sở (THCS) trong bối cảnh chưa có giáo viên được đào tạo tích
hợp, giáo viên dạy đơn môn sau một thời gian tập huấn ngắn ngủi chuyển sang dạy
tích hợp khiến chất lượng dạy học không như mong muốn; khâu kiểm tra đánh giá
cũng khá phức tạp. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) vừa có văn bản hướng dẫn
cụ thể về việc dạy các môn tích hợp nhằm từng bước gỡ khó cho giáo viên và các
nhà trường.
Việc dạy các môn tích hợp ở bậc THCS đang gặp một số khó khăn, lúng túng. Ảnh minh họa |
Theo phản ánh của
nhiều giáo viên, qua hai năm triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ
thông 2018 ở cấp THCS cho thấy, đây là điều kiện để giáo viên tìm tòi, phát huy
các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại. Tuy nhiên, việc triển khai Chương
trình giáo dục phổ thông 2018 cũng gặp những khó khăn nhất định. Việc tích hợp
các môn Khoa học tự nhiên và Lịch sử, Địa lý còn bất cập khi chưa có giáo viên
đáp ứng yêu cầu giảng dạy môn tích hợp. Sách giáo khoa môn tích hợp vẫn được
biên soạn theo những phân môn độc lập riêng biệt, chưa thật sự mang tính tích
hợp về nội dung. Điều này dẫn đến tình trạng hai hoặc ba thầy cùng dạy một
quyển sách và cùng chấm một bài khi kiểm tra, phân chia thời khóa biểu hoặc 1
thầy sau khi được bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn về dạy tích hợp phải “cõng” cả 2
hoặc 3 môn. Giải pháp tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên dạy tích hợp cũng
chưa thật sự hiệu quả…
Liên quan việc
triển khai dạy học môn tích hợp gồm môn Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý ở
cấp THCS, bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Quốc
hội từng đặt vấn đề: Chương trình các môn Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý
hiện nay đúng là tích hợp chưa hay, đó chỉ là lắp ghép các môn học thành phần
lại với nhau? Đây là việc cần làm rõ hơn căn cứ vào cơ sở khoa học và thực tiễn
đã triển khai các năm qua. Cũng theo bà Nguyễn Thị Mai Hoa, quá trình giám sát
cho thấy, các trường triển khai rất khác nhau với các môn tích hợp trên. Có nơi
cho giáo viên tập huấn rồi yêu cầu một giáo viên dạy hết môn (gồm các phân môn
khác nhau) trong khi hầu hết giáo viên hiện nay chỉ được đào tạo đơn môn ở
trường sư phạm. Có nơi phân bố thời khóa biểu để giáo viên đảm nhiệm các phần
khác nhau tương ứng với chuyên môn được đào tạo. Nhưng vì thiếu giáo viên, vì
chưa linh hoạt, chủ động trong thiết kế kế hoạch dạy học nên xảy ra các bất
cập. Chẳng hạn như một giáo viên phải đảm nhiệm nhiều tiết/tuần dẫn đến tính
logic, khoa học của môn học bị phá vỡ khi các trường phải loay hoay bố trí giáo
viên, đảo lộn các phần khác nhau trong chương trình môn học này. Từ thực tế
trên, bà Nguyễn Thị Mai Hoa đề nghị phải có sự đánh giá về hiệu quả thực hiện,
phân tích những vướng mắc hiện nay và sớm có giải pháp gỡ khó cho giáo viên và
các nhà trường…
Trong văn bản xây dựng
kế hoạch dạy các môn tích hợp ở bậc THCS do Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc
Thưởng vừa ký ban hành, Bộ GD&ĐT nêu rõ, trong quá trình triển khai thực
hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cho thấy, việc phân công giáo viên và
xếp thời khóa biểu để tổ chức dạy học theo chương trình một số môn học, hoạt
động giáo dục còn khó khăn, vướng mắc.
Để khắc phục tình
trạng trên, Bộ GD&ĐT hướng dẫn, đối với môn Khoa học Tự nhiên gồm Lý, Hóa,
Sinh, nhà trường phân công giáo viên bảo đảm sự phù hợp về chuyên môn, được đào
tạo với nội dung dạy học được phân công (theo các mạch nội dung Chất và sự biến
đổi của chất, Năng lượng và sự biến đổi, Vật sống, Trái Đất và bầu trời). Việc
phân công giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn đảm nhận dạy học từ 2
mạch nội dung hoặc toàn bộ chương trình môn học phải thực hiện từng bước, bảo
đảm yêu cầu về chuyên môn của giáo viên để bảo đảm chất lượng dạy học. Trong
trường hợp gặp khó khăn về xếp thời khóa biểu, cần xây dựng kế hoạch dạy học
linh hoạt về thời gian, thời điểm thực hiện các mạch nội dung hoặc các chủ đề
của chương trình phù hợp với việc phân công giáo viên, đáp ứng yêu cầu về tính
khoa học, tính sư phạm và khả năng thực hiện của giáo viên.
Việc kiểm tra, đánh
giá thường xuyên được thực hiện trong quá trình dạy học. Giáo viên dạy học nội
dung nào thực hiện việc kiểm tra, đánh giá đối với nội dung đó. Hiệu trưởng
phân công giáo viên chủ trì phụ trách môn học ở mỗi lớp phối hợp với các giáo
viên cùng dạy học môn học ở lớp đó để thống nhất điểm đánh giá thường xuyên,
bảo đảm số điểm đánh giá theo quy định, tổng hợp điểm, ghi điểm, nhận xét vào
sổ theo dõi, đánh giá học sinh và học bạ. Ma trận, nội dung bài kiểm tra định
kì được xây dựng phù hợp với nội dung và thời lượng dạy học của chương trình
đến thời điểm kiểm tra. Hướng dẫn học sinh làm bài kiểm tra sao cho thuận tiện
trong việc phân công giáo viên chấm bài, tổng hợp kết quả.
Đối với môn môn Lịch
sử và Địa lý, theo hướng dẫn mới của Bộ GD&ĐT, các nhà trường phân công
giáo viên bảo đảm sự phù hợp giữa chuyên môn được đào tạo với nội dung dạy học
được phân công (theo phân môn Lịch sử, phân môn Địa lí và các chủ đề liên môn).
Việc phân công giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn đảm nhận việc
dạy học toàn bộ chương trình môn học phải thực hiện từng bước, bảo đảm yêu cầu
về chuyên môn của giáo viên để bảo đảm chất lượng dạy học. Việc kiểm tra, đánh
giá thường xuyên và định kỳ được thực hiện trong quá trình dạy học theo từng
phân môn. Nội dung bài kiểm tra, đánh giá định kỳ phù hợp với nội dung và thời
lượng dạy học theo từng phân môn Lịch sử và phân môn Địa lí tính đến thời điểm
kiểm tra, đánh giá. Hiệu trưởng phân công giáo viên chủ trì phụ trách môn học ở
mỗi lớp phối hợp các giáo viên cùng dạy học môn học ở lớp đó để tổng hợp điểm,
ghi điểm, nhận xét vào sổ theo dõi, đánh giá học sinh và học bạ.
Huyền
Thanh
Lừa bán tài liệu tập huấn PCCC
[CAND] Thời gian gần đây, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh xuất hiện nhiều đối tượng giả danh, tự xưng là CBCS Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH Công an tỉnh Tây Ninh, Công an các huyện, thị xã, thành phố gọi điện đến các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cụ thể, các đối tượng yêu cầu giám đốc doanh
nghiệp, chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện một số nội dung: Phải đăng
ký tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ về PCCC, làm hồ sơ về PCCC, mua các tài
liệu, sách về PCCC, in băng rôn tuyên truyền… nhằm thu lợi bất chính.
Điển hình, vào ngày 5/10, một đối tượng gọi
cho đại lý phân bón T.V (tọa lạc ấp phước Lợi, xã Phước Vinh, huyện Châu Thành)
thông báo phải tham gia lớp tập huấn PCCC, mua tài liệu tại Công an huyện Châu
Thành vào ngày 10/10. Bước đầu, chúng yêu cầu phải mua tài liệu PCCC với giá
450.000 đồng để tham gia lớp tập huấn PCCC của Công an huyện Châu Thành.
Ảnh minh họa |
Tiếp đó, vào ngày 15/10, đối tượng gọi điện
cho cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ P. tại xã Hòa Hội (huyện Châu Thành), yêu
cầu chủ cơ sở kinh doanh trên phải mua tài liệu với giá 400.000 đồng và tham
gia lớp tập huấn PCCC của Công an huyện Châu Thành tại trụ sở vào ngày 23/10.
Công an tỉnh Tây Ninh khuyến cáo, hiện nay
Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH Công an tỉnh Tây Ninh và Công an các huyện, thị xã,
thành phố không có chủ trương thực hiện nội dung trên. Đồng thời, Công an tỉnh
Tây Ninh cũng không cử CBCS liên hệ thông qua điện thoại với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh để yêu cầu thực hiện các nội dung trên. Khi có yêu cầu các cơ
sở sản xuất, kinh doanh thực hiện quy định Luật PCCC, Công an sẽ gửi văn bản
hoặc cử CBCS trực tiếp đến cơ sở liên hệ hoặc thông qua Công an cấp xã, phường,
thị trấn để thông báo đến giám đốc doanh nghiệp, chủ cơ sở kinh doanh.
Đề nghị giám đốc các doanh nghiệp, chủ các cơ
sở sản xuất kinh doanh và người dân cần nâng cao cảnh giác, phòng ngừa, đấu
tranh, tố giác các hành vi phạm pháp luật, thủ đoạn mạo danh CBCS Công an để
lừa đảo. Nếu phát hiện đối tượng nghi vấn thì báo ngay chính quyền địa phương
hoặc cơ quan Công an nơi gần nhất để kịp thời phát hiện, bắt giữ.
N.Minh
Chuyện về thẻ căn cước...
[QĐND] - Các ông ơi, không hiểu vì sao kỳ họp này Quốc hội lại xem xét, cho ý kiến vào dự thảo Luật Căn cước, rồi sẽ đổi thẻ căn cước công dân (CCCD) thành thẻ căn cước. Tôi thấy mấy trang “lề trái” nó phản đối, bảo là vẽ việc để kiếm chác...
- Đúng đấy, tôi
cũng thấy trên mạng xã hội có người cho rằng việc thay đổi này nhằm thu lợi cho
cơ quan chức năng, còn người dân phiền phức, tốn kém thì mặc kệ!
Rót nước trà mời
mấy người bạn già cùng xóm xong, ông Tuấn mở điện thoại thông minh ra, tìm bài
báo đưa cho các bạn xem và phân tích:
- Lúc đầu, tôi
cũng nghĩ như các ông. Nhưng rồi tôi vào Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an
để tìm hiểu thì mới biết, việc sửa đổi Luật Căn cước công dân năm 2014 thành Luật
Căn cước là một bước đột phá trong quản lý dân cư, phục vụ chuyển đổi số; qua
đó đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, giải quyết thủ tục hành chính và cung
cấp dịch vụ công trực tuyến, khai thác, bổ sung dữ liệu quốc gia về dân cư.
Ảnh minh họa: antoanthongtin.vn |
Cơ sở dữ liệu này chia sẻ cho các cơ quan, tổ chức có nhu cầu sử
dụng thông tin về dân cư để phục vụ công tác quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ
công, tạo điều kiện cho công dân tham gia vào các giao dịch điện tử thuận tiện,
an toàn. Căn cước là công cụ xác minh danh tính và quyền lợi của công dân khi
thực hiện các giao dịch điện tử cả trong và ngoài nước.
Căn cước điện tử phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới
số, giúp người dân không cần mang theo thẻ căn cước khi thực hiện các giao dịch
điện tử. Không những thế, Luật Căn cước là cơ sở để cấp chứng nhận căn cước cho
người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc
tịch nhằm quản lý và bảo vệ quyền công dân của họ. Thẻ căn cước cũng không có
vân tay và một số thông tin không cần thiết để tránh rủi ro khi lộ thông tin cá
nhân... Nói chung là rất nhiều tiện lợi các ông ạ!
- Nhưng mà nó gây tốn kém và người dân lại phải đi làm thẻ căn
cước!
Trước ý kiến của người bạn đồng niên, ông Tuấn đọc một đoạn giải
trình của Bộ Công an: Việc thay thẻ CCCD đang sử dụng bằng thẻ căn cước mới
không gây phiền hà, tốn kém, vì dự thảo Luật Căn cước thay thế Luật CCCD năm
2014 đã quy định rõ việc chuyển tiếp: CCCD đã được cấp trước ngày Luật Căn cước
có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn ghi trong thẻ; khi
người dân có yêu cầu thì được đổi sang thẻ căn cước. Chứng minh nhân dân còn
thời hạn sử dụng đã được cấp trước ngày Luật Căn cước có hiệu lực thi hành thì
được sử dụng đến hết năm 2024. Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành
mà sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân, thẻ CCCD thì vẫn giữ nguyên hiệu
lực pháp luật. Thẻ CCCD quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước ngày
Luật Căn cước có hiệu lực thi hành có giá trị như thẻ căn cước. Cơ quan quản lý
nhà nước không được quy định thủ tục riêng về thay đổi, điều chỉnh thông tin về
chứng minh nhân dân, thẻ CCCD trong giấy tờ đã cấp.
Nghe ông Tuấn đọc rõ ràng từng ý, mấy người bạn vỡ lẽ dần, gật
đầu lia lịa. Ông Tuấn chân thành bộc bạch:
- Nhờ đọc kỹ những thông tin này nên tôi mới hiểu sự cần thiết
phải ban hành Luật Căn cước và thay thẻ CCCD thành thẻ căn cước đấy! Qua đây
tôi rút ra bài học: Trước những thông tin chê trách chính quyền, nhất là những
ý kiến phản đối với thái độ hằn học đăng trên các trang mạng thì mình đừng có
tin, phải tìm hiểu thông tin chính thống để không bị mắc lừa, không bị các đối
tượng phản động “dắt mũi” nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của chúng, các ông ạ!
LÂM SƠN
Giới thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù
Ngày 23/10, Phòng Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp, Công an tỉnh Yên Bái phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh tổ chức hội nghị tư vấn, định hướng, giới thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người được đặc xá trở về địa phương.
Tại hội nghị, 50
người chấp hành xong án phạt tù trên địa bàn huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái đã
được tư vấn, định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm miễn phí. Hơn 20 doanh
nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động thuộc các lĩnh vực: may mặc,
nhà hàng ăn uống, chế biến gỗ… đã trực tiếp phỏng vấn với các tiêu chí
phù hợp khả năng, trình độ, chuyên môn và điều kiện của người chấp hành xong án
phạt tù, với mức lương từ 5 đến 10 triệu đồng/người/tháng.
Quang cảnh hội nghị. |
Đây là hội nghị tư vấn, định hướng và giới
thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương lần đầu
tiên được tổ chức trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Trong thời gian tới, Công an tỉnh Yên Bái sẽ
phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh tiếp tục triển khai nhân rộng mô hình trên địa bàn toàn tỉnh.
Việc tổ chức hội nghị tư vấn, định hướng, giới
thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù, người được tha tù trước
thời hạn có điều kiện, người được đặc xá trở về địa phương có ý nghĩa quan
trọng, góp phần nâng cao trách nhiệm, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp
cùng với các cấp chính quyền địa phương trong các hoạt động tạo sinh kế cho
người chấp hành xong án phạt tù.
Thiên Bình - Giang Lương
Bộ Nội vụ nói gì về “phương án hợp nhất tỉnh, thành phố” lan tràn trên mạng xã hội?
[CAND] Mấy ngày gần đây, trên mạng xã hội lan truyền thông tin về phương án cụ thể sáp nhập các tỉnh, thành phố và các bộ, ngành. Thông tin ...
-
Bà Đàm Bích Thủy là hiệu trưởng trường đại học Fulbright mới đây đã có một phát ngôn với báo chí nước ngoài đại loại. "Học sinh c...
-
VOV.VN - Nghị định 137/2020/NĐ-CP nghiêm cấm hành vi nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, sử ...