TCCS - Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách chống phá Việt Nam. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà chúng thường sử dụng là quy kết hiện tượng cá biệt thành bản chất nhằm vu cáo, xuyên tạc, làm trầm trọng hóa tình hình. Do đó, cần nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi ấy để nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức đấu tranh, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Nhận
diện thủ đoạn chống phá quen thuộc - từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản
chất
Chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang
xây dựng là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động,
cơ hội chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các thế lực chống phá thường theo
dõi rất sát diễn biến về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Do
vậy, mỗi khi có vấn đề nào đó xảy ra hay có hiện tượng nào đó phát sinh, các
thế lực nhanh chóng quy kết, chụp mũ để nâng cao quan điểm, thổi phồng, bóp méo
sự thật. Đó là bản chất của thủ đoạn quy kết các hiện tượng cá biệt thành bản
chất rồi lớn tiếng quy chụp, rêu rao nhằm tạo sự chú ý của dư luận, dọn đường
cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện các mưu đồ
chống phá.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hiện tượng là phạm trù chỉ sự
biểu hiện ra bên ngoài của các sự vật; còn bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp
tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng và bản chất là
một cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng, trong đó bản chất luôn luôn được
bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định; không có bản chất tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, đồng
thời cũng không có hiện tượng nào mà không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự
thống nhất này, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính
bản chất”(1).
Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là cái không ổn định, không
quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức không chỉ dừng
lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến bản chất của sự vật. Điều này cũng được V.I.
Lê-nin chỉ rõ như sau: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường
biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng bản chất”(2). Luận điểm này
có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức bản chất của sự vật.
Đó là, không thể xuất phát từ những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ mà quy kết là
bản chất của sự vật bởi đây là biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí của chủ
thể nhận thức.
Ấy vậy mà, thời gian qua, những kẻ phản động, cơ hội chính trị hoặc do
thiếu hiểu biết, hoặc cố tình lờ đi những nguyên tắc phương pháp luận trong
nhận thức bản chất của sự vật nên thường xuyên dùng chiêu bài quy chụp hiện
tượng cá biệt thành bản chất. Điển hình như những sự việc sau:
Một là, xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô mà quy kết cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học
thuyết khoa học.
Năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sau hơn 74 năm ra đời đã
sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Đây
được coi là “chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” và là cái cớ để
các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lên tiếng quy chụp, phủ nhận
lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ảo tưởng, sai lầm. Họ
rêu rao rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do sự lạc
hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác vì “Chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ
là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện
được”(3); “chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra các nguyên tắc “đấu tranh giai cấp”,
“tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc
đoán, thủ tiêu dân chủ”(4)(?!)... Những luận điệu nguy hiểm đó được tung ra
khắp nơi trên thế giới với mưu mô phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác, từ đó kêu gọi các nước không nên đi theo con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội
chính trị ở nước ngoài đã lên tiếng quy chụp “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về
kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(5); hay
con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng chính là “một
khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư
bản”(6). Từ đó, các phần tử cơ hội chính trị lên tiếng kêu gọi Việt Nam cần
“tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà các nước xã hội chủ
nghĩa, như Liên Xô, Đông Âu đã đi qua để phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa!
Đại hội lần thứ 27 của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1986 _Nguồn: photochronograph.ru |
Hai là, từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên
“thoái hóa”, “biến chất”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên cũng được coi là một cái cớ để các thế lực nắm lấy nhằm
thổi phồng, quy chụp đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta. Từ hiện tượng một số
cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm, bị xử lý kỷ luật, các thế lực thù địch,
cơ hội chính trị lớn tiếng quy chụp rằng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam
hiện nay đã “thoái hóa về tư tưởng, suy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống,
không giữ được “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như lời dạy của Bác
Hồ”(7).
Gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn triệt để
lợi dụng tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy chụp đó
là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ hàm hồ cho rằng, tình trạng đó bắt
nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở Việt Nam và cáo buộc
tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ độc Đảng cầm quyền”(8).
Ngoài ra, các thế lực phản động còn đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số
đảng viên, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất và lên tiếng rêu rao “Đảng
không còn là Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách
mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc”(9).
Từ những lập luận kiểu quy chụp hiện tượng thành bản chất nêu trên, các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản
Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng
cũng suy thoái, tham nhũng”(10). Những phần tử phản động đã ra sức bài xích chế
độ một đảng của Việt Nam, lên tiếng kêu gọi Việt Nam phải đi theo con đường đa
đảng, tam quyền phân lập vì “Chỉ có thể chống tham nhũng khi thực hiện thể chế
“tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực”(11). Nguy hại hơn, các thế lực thù địch còn võ
đoán bằng những luận điệu hết sức thâm hiểm: “Trước tình hình cai trị độc tài,
không hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu
đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân
phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước,
kẻ sau, càng ngày càng đông”(12)!
Ba là, xuất phát từ những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước mà quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam “mất hết vai trò lãnh đạo”.
Trong thời gian qua, từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là mục
tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 mà Việt Nam đặt ra cách đây
nhiều năm đã không đạt được, các thế lực thù địch lên tiếng đổ lỗi cho Đảng ta
lãnh đạo đất nước không hiệu quả. Trên nhiều diễn đàn, nhất là mạng xã hội, với
danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các phần tử cơ hội chính trị đã lớn tiếng rêu
rao “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo” và lên tiếng khuyên Việt
Nam cần phải đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện chính sách “đa nguyên
chính trị”, “đa đảng đối lập”!
Gần đây, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến phức
tạp, trên các kênh truyền thông và mạng xã hội của lực lượng phản động nước
ngoài quy chụp rằng “Việt Nam đã mất khả năng phòng, chống dịch” hay “Đảng Cộng
sản Việt Nam đã không thể chống đỡ trước cơn bão dịch”... Những luận điệu này
được rêu rao khắp nơi hòng làm giảm sút uy tín và phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào vai trò, vị thế và uy tín của Đảng.
Thực
chất của thủ đoạn chống phá từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất và
giải pháp đấu tranh
Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất tuy là thủ đoạn không mới,
nhưng vô cùng nguy hiểm. Những thế lực sử dụng thủ đoạn này hoặc là thiếu hiểu
biết về việc xem xét bản chất của sự việc (trường hợp này không nhiều), hoặc là
cố tình lờ đi nguyên tắc xem xét, đánh giá bản chất của sự việc từ những hiện
tượng đơn lẻ (trường hợp này là nhiều). Do đó, họ đã quy kết, đồng nhất hiện
tượng với bản chất. Đây thực chất là thủ đoạn xuyên tạc, thổi phồng kiểu “vơ
đũa cả nắm” với mưu đồ chống phá. Dễ dàng nhận thấy mục đích đằng sau thủ đoạn
này là các thế lực thù địch muốn quy chụp, vu cáo những sai lầm, hạn chế của
Đảng và Nhà nước ta từ những vụ, việc cụ thể, cá biệt thành hiện tượng phổ
biến, có tính quy luật nhằm làm trầm trọng hơn vấn đề, khoét sâu thêm những
khuyết tật đã có. Mục đích sâu xa của thủ đoạn này là nhằm hạ thấp năng lực
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta, cổ xúy và thúc đẩy tình trạng phản
đối, khiếu kiện, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền của một bộ phận nhân dân
kém hiểu biết, bản lĩnh chính trị không vững vàng; từ đó mưu toan hướng lái sự
phát triển của Việt Nam theo con đường mà các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị cho là “tối ưu nhất” - con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Có thể thấy rõ sự phiến diện, sai lầm trong cách quy kết đó. Chúng ta
không phủ nhận những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm từ những hiện tượng mà các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đưa ra, song điều nguy hại là
ở chỗ nó đã bị xuyên tạc, bóp méo qua lăng kính chủ quan với mưu đồ chống phá
nguy hiểm. Ví như, từ sự quy chụp sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô và các nước Đông Âu mà quy kết là sự “cáo chung” của lý luận về chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Mặc dù Liên Xô và các nước Đông Âu là
những nước tiêu biểu về xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở thế kỷ XX, nhưng
sự sụp đổ không phải là sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa với tính cách là hình
thái kinh tế - xã hội mà loài người hướng đến. Nguyên nhân của sự sụp đổ đó
không phải là do những sai lầm cố hữu của chủ nghĩa Mác mà “bắt nguồn từ chủ
nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của
Đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối
với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(13). Hơn nữa còn do cả
sự phản bội của một số lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ
đúng như lời thú nhận của M.X. Goóc-ba-chốp được A.P. Sê-vi-a-kin công bố trong
cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản
bội năm 1945 - 1991”. Đó là: “Mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt
chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này, tôi đã sử dụng địa vị
của mình trong Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây,
tôi đã hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đặt ra. Và để đạt
được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô và
Xô-viết tối cao cũng như Ban Lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hòa. Tôi đã tìm
kiếm những người ủng hộ để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có
A.Ya-kốp-lép, Sê-vát-nát-de...”(14).
Từ tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, nhất là tình trạng tham nhũng mà các thế lực thù địch,
phản động quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của nước ta thoái hóa, biến chất
hay Đảng ta không có khả năng đấu tranh chống tham nhũng, Đảng chỉ dám đánh
“con tôm, con tép”. Thực tiễn cho thấy, chúng ta không thể phủ nhận tình trạng
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên trong những năm gần đây có những biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, nhưng
số cán bộ, đảng viên vi phạm chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cán bộ, đảng
viên trên cả nước. Ngoài những cán bộ có biểu hiện tiêu cực, có rất nhiều cán
bộ, đảng viên luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, nêu cao trách nhiệm cống
hiến vì xã hội, vì cộng đồng và có đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất
nước, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tôn vinh. Những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử của đất nước, thời gian qua không thể không kể đến sự đóng
góp của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cả nước. Họ không chỉ lãnh đạo, quản lý
đất nước, mà thực sự còn là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, là nơi
gửi gắm niềm tin yêu, sự tôn trọng của nhân dân.
Trước tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều hạn
chế, tăng trưởng kinh tế còn chậm, các thế lực thù địch quy kết rằng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã mất vai trò lãnh đạo, đường lối đổi mới của Việt Nam không
thành công. Đó thực chất là những luận điệu chủ quan, duy ý chí, thể hiện rõ
mưu đồ quy chụp. Để đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
hay kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, cần có cái nhìn khách quan, công
tâm, trên tinh thần khoa học, biện chứng mới thấy rõ hết được. Chúng ta không
phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển, mức độ
tăng trưởng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng nhìn
lại cả chặng đường đã đi qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, chúng ta mới thấy
hết được những bước phát triển vượt bậc của đất nước. Điều này đã được đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã
đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh
tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên
tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết;
chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội
nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đó là những bằng
chứng thuyết phục để khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt
Nam, khẳng định đường lối đổi mới của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, vừa phù
hợp với quy luật khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Đây cũng chính là căn cứ thực tiễn sinh động để phản bác những thủ
đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, trong đó có thủ đoạn quy kết
những hiện tượng đơn lẻ, cá biệt thành bản chất.
Thủ đoạn chống phá quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất tuy
không mới, nhưng cũng không thể xem nhẹ, coi thường vì nó dễ khiến người khác
hiểu sai, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin. Do đó, cần có những biện pháp
hợp lý để đấu tranh ngăn chặn.
Một là, cần nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Các tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể phải không ngừng tuyên truyền, giúp nhân dân nhận
diện rõ thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch khi quy kết những
hiện tượng cá biệt thành bản chất để tránh bị các thế lực lôi kéo, mua chuộc,
kích động. Ngoài ra, cần động viên, khích lệ, hướng dẫn nhân dân tham gia đấu
tranh phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng
điều kiện, khả năng của mình nhằm nâng cao “sức đề kháng” trước những hoạt động
chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Hai là, tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc
tuyên truyền, lan tỏa những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước để, một mặt, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; mặt khác, từng bước pha
loãng những thông tin xấu, độc, có nội dung xuyên tạc, quy chụp, võ đoán để các
thông tin tích cực chiếm ưu thế trên báo chí, truyền thông, mạng xã hội. Ngoài
ra, trước những vụ, việc có dấu hiệu bị quy chụp, xuyên tạc, các cơ quan báo
chí, truyền thông cần phát huy vai trò trong việc định hướng tư tưởng cho nhân
dân theo những luồng thông tin chính thống, tránh để các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị chiếm lĩnh thông tin, dẫn dắt dư luận theo ý muốn chủ
quan để dễ bề thực hiện mưu đồ chống phá.
Ba là, cần chủ động có những biện pháp phù hợp để đấu tranh nhằm vô hiệu
hóa các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Căn cứ vào vai trò, nhiệm
vụ của các lực lượng chuyên trách, nòng cốt để xây dựng những phương án đấu
tranh phù hợp với thủ đoạn quy chụp từ những hiện tượng cá biệt thành bản chất.
Với lực lượng tuyên giáo các cấp, cần phát huy vai trò trong việc tuyên truyền,
vận động nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch. Với đội ngũ chuyên gia, cần đẩy mạnh nghiên cứu, cung
cấp các luận cứ khoa học sắc bén, thuyết phục để phản bác những âm mưu, thủ
đoạn chống phá. Với lực lượng xung kích (công an, quân đội, thanh niên...) cần
thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp kỹ thuật để bóc gỡ, ngăn chặn, xử
lý những thủ đoạn chống phá; đồng thời, tăng cường đấu tranh trên không gian
mạng, mở rộng mạng lưới đấu tranh trong nhân dân để quy tụ và phát huy sức mạnh
tổng lực.
Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất là một trong những thủ đoạn
tinh vi mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên thực
hiện nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
đang xây dựng. Nhận diện bản chất của thủ đoạn đó để nâng cao tinh thần cảnh
giác, ý thức trách nhiệm là cách mỗi chúng ta đấu tranh với những thủ đoạn
chống phá đó, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay./.
TS
LÊ THỊ CHIÊN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-----------------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, t. 29, tr. 268
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 29, tr. 137
(3), (4), (5) Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương:
Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 48
(6) Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương: Một số vấn
đề về chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, tr. 12
(7) Dẫn theo: Vũ Văn Hiền (Chủ biên): Một số luận cứ
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, t. 1, tr. 287
(8) Dẫn theo: Võ Văn Hải: “Những luận điệu lạc lõng
của RSF”, trong sách Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình
hình mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 100
(9) Dẫn theo: Cục Tuyên huấn: Phòng, chống âm mưu,
thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
(sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 45
(10), (11) Dẫn theo: Vũ Văn Hiền (Chủ biên): Một số
luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của
Đảng, Sđd, t. 1, tr. 300
(12) Dẫn theo: Cục Tuyên huấn: Phòng, chống âm mưu,
thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
(sách chuyên khảo), Sđd, tr. 32
(13) Nguyễn Ngọc Hồi: “Vì sao Đảng ta vẫn lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng”, trong sách Góp phần bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 15
(14) Dẫn theo: Tống Thế Gia: “Vì sao Liên Xô sụp
đổ”, Báo Thời nay, số 2, 2010, tr. 6
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 33
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét