[CANX] Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của
con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Ảnh minh họa |
Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu
rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo
lưu quan điểm mà không bị can thiệp cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền
bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không
có giới hạn về biên giới”.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR)
năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm
tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh
vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức
nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa
chọn của họ”.
Tự do ngôn luận và những
hành vi lợi dụng trên không gian mạng
Thời gian qua, cùng với sự phát triển của công nghệ thông
tin, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận có sự biến đổi lớn. Internet, mạng
xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư
tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh
hưởng của nó rất mạnh mẽ và nhanh chóng, tạo được sự chú ý, quan tâm theo dõi của
số đông người dân, nhất là những người có ảnh hưởng trong xã hội.
Chỉ cần sở hữu phương tiện điện tử (điện thoại thông minh,
laptop) có kết nối Internet, cá nhân có quyền tự do truyền đạt thông tin, ý kiến
của mình đến người khác mọi nơi, mọi lúc. Tình trạng các hội, nhóm tiêu cực xuất
hiện trên không gian mạng có xu hướng ngày càng gia tăng gây tác động xấu đối với
người sử dụng mạng nói riêng và việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội nói chung.
Thực tế này đang đòi hỏi các cơ quan chức năng cần sớm có
các biện pháp ngăn chặn hiệu quả cũng như đặt ra yêu cầu mỗi người dân khi tham
gia mạng xã hội phải hết sức tỉnh táo để không trở thành nạn nhân của "thế
giới ảo".
Thông qua các hội, nhóm tiêu cực, người dùng có thể tự do
bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền bất cứ thông tin gì thông qua
tài khoản cá nhân của mình. Điều này mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm
dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan
điểm sai trái, thái độ cực đoan, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, dẫn đến bị
các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động hoặc vì động cơ cá nhân, một
số trường hợp đã đăng tải thông tin sai sự thật, xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Điển hình như các trường hợp: Nguyễn Phước Trung Bảo, Đoàn
Kiên Giang, Nguyễn Thanh Nhã, Lê Thế Thắng, Trương Châu Hữu Danh (trú tại Long
An), Nguyễn Phương Hằng, Lê Anh Dũng (trú tại TP Hồ Chí Minh), Lê Chí Thành
(trú tại Bình Thuận), Nguyễn Huy (trú tại Quảng Trị)... Những trường hợp trên đều
bị truy cứu theo Điều 331, BLHS 2015 về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”,
cụ thể là lạm dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội.
Sự lợi dụng các quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng
đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho cộng đồng. Theo dữ liệu thống
kê từ We are Social, tính đến tháng 1/2022, Việt Nam có 76,95 triệu người dùng
mạng xã hội, tương đương 78,1% tổng dân số. Từ năm 2021 đến 2022, số người dùng
mạng xã hội ở Việt Nam đã tăng 5 triệu người (6,9%). Với độ phủ sóng rộng cùng
một lượng lớn thời gian hoạt động và tương tác trên các nền tảng xã hội, những
gì người sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng
và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất là ở nhóm đối tượng vị thành
niên - lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới, dễ bị tổn thương và kích động
tâm lý.
Tự do ngôn luận trên
không gian mạng phải tuân thủ pháp luật
Theo quy định tại Điều 19, Công ước ICCPR năm 1966: “Việc thực
hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn
chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe hoặc
đạo đức của xã hội”. Như vậy, theo quy định của pháp luật quốc tế, quyền tự do
ngôn luận không phải là tuyệt đối.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, mạng xã hội
xuyên quốc gia như Facebook, Twitter, Youtube… đã tạo ra những cơ hội, khả năng
tiếp xúc, giao lưu văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới.
Nhưng chưa bao giờ môi trường ảo lại nhiều tác động tiêu cực như hiện nay. Tình
trạng lợi dụng tự do ngôn luận phát tán tin giả, tin sai sự thật, các nội dung
phản cảm, thiếu tính giáo dục, kích động bạo lực trên không gian mạng đang diễn
biến rất phức tạp.
Nhận thức rõ những nguy cơ lợi dụng tự do ngôn luận trên
không gian mạng đe dọa đối với an ninh quốc gia, nhiều nước trên thế giới cũng
đã triển khai các biện pháp nhằm kiểm soát tốt hơn những thông tin được phép
đăng tải trên mạng xã hội và hạn chế tối đa sự lan tràn, phát tán những thông
tin giả mạo và độc hại. Tại Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ
yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính
quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ
báng, xúc phạm và gây hấn mà không bị xem là vi hiến.
Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế
tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng
tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con
người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo;
chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại
việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến
an ninh quốc gia (Luật Hình sự)… Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng
Internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí.
Ngoài ra, nhiều nước châu Âu khác cũng đưa ra các quy định với
hình phạt cụ thể trong vấn đề này nhằm chống lại mọi hình thức tuyên truyền
kích động, tiến hành xử lý hình sự đối với những phát ngôn thù ghét và kích động.
Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ cũng hình sự hóa các hành vi phỉ báng, xúc phạm
danh dự của tổng thống hay các thành viên hoàng gia. Bên cạnh đó, trong nỗ lực
chung nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn thù địch,
tiêu cực trên Internet, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử
trên Internet với sự cam kết hành động của bốn doanh nghiệp mạng lớn nhất thế
giới bao gồm Facebook, Twitter, Youtube và Microsoft.
Những động thái này nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận đúng
nghĩa của người dân và tạo cơ sở để xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, văn
minh. Rõ ràng, trong bất cứ chế độ chính trị nào cũng không thể có tự do ngôn
luận tuyệt đối, các quốc gia đều có quy định xử lý hành vi lợi dụng tự do ngôn
luận; đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung, không phải là sự tuyệt đối
hóa tự do cá nhân, không thể lợi dụng tự do ngôn luận để viết, nói, xuyên tạc với
ý đồ xấu, bất chấp luân lý và luật pháp.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con
người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem
là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản,
tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và
ra nước ngoài” (Điều 10).
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Khung pháp lý của
nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật
pháp quốc tế về quyền con người.
Nhận thức rõ tầm quan trọng, lợi ích cũng như những hiểm họa
từ mặt trái của Internet và mạng xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương, chính sách phù hợp nhằm phát triển Internet và mạng xã hội; đồng thời bảo
vệ an ninh mạng và phòng, chống lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc, chống
phá chính quyền, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đáng chú ý là Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 16/9/2013 của Ban Bí
thư khóa XI về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng”; Nghị định
số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin trên mạng”; Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của
Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông
tin mạng trong tình hình mới”.
Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/1/2018 của Bộ Chính
trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Ban Tuyên giáo Trung ương
tăng cường chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng Internet
chống phá Đảng, Nhà nước. Các cơ quan chức năng của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
chủ động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử
lý các đối tượng lợi dụng Internet để vi phạm pháp luật. Cùng với đó là việc
thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) theo Quyết định
số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và
Luật An ninh mạng năm 2018 đều quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm như đăng
tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền; bịa đặt, gây
hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc
phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy
tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân…
Bên cạnh các quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý
không gian mạng từ cơ quan có thẩm quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong
việc định hướng và điều chỉnh hành vi đạo đức của con người thông qua cơ chế
giám sát cũng hết sức cần thiết.
Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của
người sử dụng mạng Internet. Nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông
tin của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi
trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân
trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng.
Cơ quan chức năng cần thường xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa
trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa theo kịp sự phát triển của không gian
mạng…
Bình Nguyên - Hoàng Ly
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét