[QĐND] Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975/30-4-2022). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Họ cho rằng, ngày 30-4-1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến
tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa
“bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng
30-4-1975 là như thế nào?
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không phải là nội chiến
Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui
giải phóng của cả dân tộc Việt Nam!
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký kết
năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh
giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống
nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên
bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào
tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở
miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình
Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng
hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu
thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền
Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng
viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những
cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc
dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực
dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của
mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình
Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ
trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam.
Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là
tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu
mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã
thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực
tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam
Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại
Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân
tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh
ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử
vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận
được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên,
không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam,
đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt
Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng
dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì
nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa
này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã
lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân
dân toàn miền.
Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận
trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc
Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một
đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài
Gòn thành con rối trong tay Mỹ.
Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội
chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt
Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc
thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975.
Bên nào thắng cuộc?
Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược,
nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành
độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt
Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm.
Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất
nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết
về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và
các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập,
thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải
pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân
Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn
thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc
lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi
Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện
rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn
được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại
chỉ là sự im lặng!
Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến
10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó
hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục
chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam
bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái
đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn
chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam
Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ.
Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để
thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại
hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau
khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa
bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ
máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai
miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng
tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định
Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là
thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia
rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách.
Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi
nghĩa
Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước
ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để
xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất,
trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người
Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự
nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền
Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện
tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước
Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt
Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột
phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân
dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.
Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng
làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt
Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi
pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc”
thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975.
Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có
khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực
tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng
30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt
Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một
phần ruột thịt của Tổ quốc.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được đúc rút từ lịch
sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan
tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải
là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen,
không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải
là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt
Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của
người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ
quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp
tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh
ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha.
Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn
ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc
gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi
công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và
giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch
sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ
sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh
đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những
bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh
giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử,
mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân
trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực
đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai
trên đất nước Việt Nam.
Theo Hồ Quang Phương