Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

Nhận thức đúng giá trị của Chiến thắng 30-4-1975: Cơ sở của đạo đức, nhân cách và trí tuệ của người Việt Nam

[QĐND] Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975/30-4-2022). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Họ cho rằng, ngày 30-4-1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 là như thế nào?

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không phải là nội chiến

Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam!

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam.

Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của quân Giải phóng đã tiến vào dinh Tổng thống, sào huyệt cuối cùng của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước. Ảnh: TTXVN  

Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ.

Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975.

Bên nào thắng cuộc?

Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm.

Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.

Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng!

Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ.

Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.

Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách. 

Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa       

Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.

Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975.

Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc.   

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được đúc rút từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha.

Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam.

Theo Hồ Quang Phương

Vạch trần thủ đoạn lợi dụng đề nghị tiếp nhận vốn nước ngoài để lừa đảo

Lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp; khó khăn về vốn đầu tư, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp trong nước…, một số đối tượng tiếp tục sử dụng chiêu trò tiếp nhận vốn từ nước ngoài để lừa đảo cá nhân, doanh nghiệp trong nước.

Các nhóm cá nhân, doanh nghiệp có hoạt động nghi vấn

Một trong số đó, phải kể đến trường hợp của Nguyễn Quốc Long, Lê Nguyên Thành, sáng lập viên, đại diện pháp luật Công ty cổ phần (CP) Di sản quốc tế Hồ Tràm; tổ chức tự xưng “Hội đoàn xử lý di sản tài chính quốc tế”... Thời gian trước đây, Nguyễn Quốc Long, Lê Nguyên Thành thành lập và liên tục sử dụng pháp nhân Công ty CP quốc tế Hồ Tràm lập nhiều bộ “hồ sơ”, “tờ trình” đề nghị được tiếp nhận nguồn vốn của “Hội đoàn xử lý di sản tài chính quốc tế”.

Sau khi bị các Cơ quan chức năng đề nghị giải thể pháp nhân Công ty CP Quốc tế Hồ Tràm do không đáp ứng đúng các quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động, các cá nhân này tiếp tục thành lập Công ty CP Di sản quốc tế Hồ Tràm và có các hoạt động tương tự. Vừa qua, khi các cơ quan chức năng yêu cầu giải thể Công ty CP Di sản quốc tế Hồ Tràm theo quy định của pháp luật, đã xuất hiện đơn của một doanh nghiệp đề nghị không cho giải thể do bị các đối tượng này lừa đảo. Đáng chú ý, Lê Nguyên Thành còn sử dụng trang Facebook Đặc khu kinh tế - biển đảo Hoàng Sa - Trường Sa đăng tải các thông tin không có thật là các “tờ trình”, “đơn đề nghị” liên quan đến “Hội đoàn xử lý di sản tài chính quốc tế” có thể gây hiểu nhầm và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam.

Một số hình ảnh đăng trên Facebook của Lê Nguyên Thành được xác định là thông tin không có thật.

Trường hợp thứ hai là Đỗ Phú Phong và các doanh nghiệp liên quan. Đỗ Phú Phong (SN 1974, HKTT tại số 80/3 Lê Văn Thọ, phường 8, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh) tham gia thành lập, đại diện pháp luật của Công ty TNHH Đầu tư tài chính Asian Tradebank và Công ty TNHH Xây dựng thương mại dịch vụ Hồng Ngọc đều có trụ sở tại phường 8, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Đỗ Phú Phong còn có tên trong danh sách sáng lập viên, giữ chức vụ Phó Giám đốc một doanh nghiệp tại tỉnh Bến Tre và một số doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp này cũng có “đơn”, “tờ trình” đề nghị tiếp nhận vốn từ nước ngoài…

Đáng chú ý, có tài liệu cho thấy Đỗ Phú Phong, với tư cách đại diện pháp luật Công ty TNHH Xây dựng thương mại dịch vụ Hồng Ngọc đã ký kết hợp đồng chuyển giao nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho Nguyễn Quốc Long, nhóm Công ty CP Quốc tế Hồ Tràm, Công ty CP Di sản quốc tế Hồ Tràm. Đỗ Phú Phong đã bị Cơ quan CSĐT - Công an TP Hồ Chí Minh khởi tố với vai trò đồng phạm giúp sức trong vụ án Nguyễn Minh Hiệp, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư tài chính Rolex, Chủ tịch HĐTV Công ty Đầu tư tài chính HCT; Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư xuất nhập khẩu TFF, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 2 doanh nghiệp qua hình thức tiếp nhận vốn nước ngoài và chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát đề nghị truy tố tháng 9/2021.

Quá trình điều tra cho thấy, mặc dù không hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng Nguyễn Minh Hiệp vẫn thành lập nhiều công ty, với mục đích sử dụng pháp nhân để tạo vỏ bọc khi tiếp xúc, đàm phán hợp tác với đối tác. Biết ông T.S.H. và ông P.H.N. đang cần nguồn vốn lớn để kinh doanh, Hiệp tự nhận được sở hữu tài sản, di sản thừa kế “khủng” tại các tổ chức tài chính quốc tế.

Để che đậy lời nói dối, Hiệp đưa ra các giấy tờ giả gồm: hối phiếu (Bankdraft), giấy chứng nhận sở hữu tài sản, di sản thừa kế có giá trị từ hàng triệu đến hàng tỷ USD, các hình ảnh số lượng lớn tiền USD; đồng thời thông tin gian dối rằng có mối quan hệ với các cán bộ cấp cao trong cơ quan Nhà nước. Tin tưởng Hiệp có khả năng tài chính lớn, có thể đầu tư vào dự án mà doanh nghiệp của mình đang thực hiện, ông H., ông N. ký kết các hợp đồng hợp tác đầu tư, thỏa thuận kinh doanh với Hiệp, chuyển giao khoản chi phí mở cổng thanh toán quốc tế để chuyển tiền từ nước ngoài vào Việt Nam tổng cộng hơn 10,8 tỷ đồng.

Quá thời hạn nhưng Hiệp không chuyển tiền để hợp tác kinh doanh, không mở chứng thư bảo lãnh tại ngân hàng như đã cam kết, ông H và ông N biết bị Hiệp lừa đảo nên làm đơn tố cáo gửi cơ quan Công an. Lúc này, Hiệp mới trả lại 1,5 tỷ đồng cho ông H. và gần 3,4 tỷ đồng cho ông N. Hiện, Hiệp vẫn còn chiếm đoạt gần 5,9 tỷ đồng của ông H. Theo nhận định của cơ quan điều tra, hành vi phạm tội của Hiệp đã hoàn thành, việc Hiệp khắc phục hậu quả, trả tiền cho người bị hại chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ.

Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an TP. Hồ Chí Minh đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân TP Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Minh Hiệp về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Các bị can Võ Văn Cận Em, Đỗ Phú Phong tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức.

Theo chỉ đạo của Hiệp, Võ Văn Cận Em nhiều lần sử dụng tài khoản cá nhân của mình nhận từ ông H. tổng cộng hơn 6,5 tỷ đồng, rồi chuyển cho Hiệp sử dụng vào mục đích cá nhân chứ không để giải quyết công việc theo nội dung hợp đồng đã ký kết. Đỗ Phú Phong cung cấp cho Nguyễn Minh Hiệp bộ hồ sơ “chứng nhận sở hữu di sản” giả mạo, nội dung ghi nhận Hiệp sở hữu 5.000 tấn vàng, trị giá 10 tỷ USD, tại một ngân hàng ở Mỹ. Phong cũng giúp Hiệp làm giả bản hối phiếu của một ngân hàng, ghi nhận doanh nghiệp phía ông H. đã được cấp vốn với số tiền 100 triệu USD.

Một trường hợp khác có nhiều hoạt động nghi vấn phải kể đến là Nguyễn Văn Tân (SN 12/5/1971, HKTT tại số 10/2 đường Lý Quốc Bảo, phường Nhị Châu, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Nguyễn Văn Tân đã có tiền án, tiền sự và không có nơi cư trú ổn định. Nguyễn Văn Tân tham gia thành lập, đại diện pháp luật của Công ty CP Tài chính quốc tế nhân đạo An Sinh toàn cầu An Phát - HT, Công ty CP Thương mại quốc tế An Sinh toàn cầu An Phát - TP, Công ty CP Tài chính quốc tế nhân đạo An Sinh toàn cầu địa mẫu Hồ Chí Minh (Hải Dương) và Công ty TNHH Thương mại tài chính quốc tế Hoàng Gia vạn quốc bảo thông Bank toàn cầu (Hà Nội).

Qua xác minh, từ năm 2018 đến nay, Nguyễn Văn Tân đã nhiều lần sử dụng các pháp nhân nêu trên để gửi đơn, “tờ trình” đề nghị được tiếp nhận vốn nước ngoài, di sản tài chính… đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành để đề nghị được tiếp nhận các nguồn vốn từ nước ngoài. Tuy nhiên, qua phối hợp với các cơ quan chức năng, Cục An ninh Kinh tế đã làm rõ một số nội dung: các hồ sơ đề nghị tiếp nhận vốn từ nước ngoài đều không đúng quy định của pháp luật, các dự án không có thật, không có giấy tờ pháp lý của đối tác nước ngoài cũng như nguồn vốn từ nước ngoài, tài khoản của các doanh nghiệp không có tiền từ nước ngoài chuyển về như thông tin trên các chứng từ ngân hàng do Tân gửi kèm theo hồ sơ…

Thậm chí, tên, số tài khoản của đối tác nước ngoài cũng không tồn tại trên hệ thống của một ngân hàng ở Đức và được ghi nhận xuất hiện nhiều lần trên các bộ chứng từ được thông báo là giả mạo…

Nhận diện các thủ đoạn lừa đảo

Trao đổi với chúng tôi, lãnh đạo Cục An ninh Kinh tế, Bộ Công an cho biết: Các đối tượng đã lợi dụng sự khó khăn về nguồn vốn, thiếu hiểu biết và lòng tham của một bộ phận cá nhân, doanh nghiệp; sơ hở trong việc phát hành các văn bản tiếp nhận, trả lời của các cơ quan chức năng để lấy mẫu, chữ ký, sửa chữa nội dung để hoạt động lừa đảo. Các đối tượng đứng tên thành lập, đại diện các doanh nghiệp, hoặc bằng nhiều cách để có tên trong danh sách sáng lập viên các doanh nghiệp khác, được bổ nhiệm giữ các chức vụ phụ trách về tài chính, được ủy quyền để tiếp nhận nguồn vốn từ nước ngoài…

Cùng với đó, là câu kết, móc nối với các cá nhân mạo danh là đại diện các cơ quan, tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài không có thật vào Việt Nam hoặc mời/đề nghị các cá nhân, tổ chức trong nước cùng ra nước ngoài để tiếp xúc, gặp gỡ nhằm tạo niềm tin. Đặc biệt, các đối tượng tạo được niềm tin rất lớn với các cá nhân, tổ chức trong nước về nguồn tiền nên các cơ quan chức năng rất khó giải thích để phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lừa đảo.

Thông qua các mối quan hệ xã hội để giới thiệu, chào mời các cá nhân, doanh nghiệp trong nước về các nguồn vốn vay lớn, lãi suất thấp, tài trợ cho các dự án về an sinh xã hội, môi trường. Đặc biệt, bằng nhiều cách thức, các đối tượng tìm cách tiếp xúc, quan hệ với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các Bộ, ngành (đương chức, nghỉ hưu) có uy tín, chức vụ để nhờ cậy, tác động, tạo sức ép với các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương.

Để tạo sự quan tâm, chú ý của các cơ quan chức năng, cá nhân, doanh nghiệp trong nước, hồ sơ tiếp nhận vốn nước ngoài có dấu hiệu nghi vấn thường nêu chung chung mục đích đầu tư cho các dự án kinh tế, dự án an sinh xã hội; trong đó, có các dự án mới được đồng ý về mặt chủ trương, chưa được các cấp có thẩm quyền cấp phép hoặc lên mạng Internet lấy thông tin, hình ảnh của các dự án để đưa vào hồ sơ, gồm cả những dự án lớn của Chính phủ như: dự án cao tốc Bắc - Nam, các dự án xây dựng bệnhviện, trường học…

Đáng chú ý, các đối tượng còn lợi dụng tình hình thiên tai, dịch bệnh để đưa đưa vào các “tờ trình”, “đơn đề nghị” tiếp nhận vốn từ nước ngoài. Cụ thể như, lợi dụng dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp tại TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố, nhóm công ty liên quan đến Đỗ Phú Phong đã gửi rất nhiều hồ sơ và lồng ghép nội dung “hỗ trợ quỹ vaccine”, “hỗ trợ dịch bệnh COVID-19” nhằm tạo sự chú ý, quan tâm của cơ quan chức năng, các doanh nghiệp, tổ chức…

Một trong những vấn đề đáng quan tâm là việc các đối tượng lợi dụng sự thông thoáng trong đăng ký thành lập doanh nghiệp để tham gia thành lập, đại diện pháp luật của nhiều doanh nghiệp với số vốn điều lệ rất lớn lên đến hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đều không có hoạt động sản xuất kinh doanh, không hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh, “chủ doanh nghiệp” thì không xác định được nơi cư trú và cũng không liên hệ được...

Đối với hình thức khai thác “kho báu”, “di sản”, “ngoại tệ trôi nổi”, các đối tượng thường lồng ghép các vấn đề tâm linh nhằm tạo niềm tin, mê hoặc các cá nhân, tổ chức nhằm thực hiện mục đích lừa đảo, lôi kéo tham gia. Thậm chí, có những cá nhân cho biết số ngoại tệ trôi nổi lên tới hàng trăm ngàn tỷ USD, được vận chuyển bằng rất nhiều container về Việt Nam qua đường biển mà các cơ quan chức năng Việt Nam cũng như nước ngoài không biết, được cất giữ trong nhiều kho trên khắp đất nước, mà chỉ những người được giao “mật mã” mới vào được, ai cố tình tìm cách xâm nhập vào kho, hoặc nghe các đối tượng nói mà thiếu lòng tin sẽ phải trả giá rất đắt, kể cả tính mạng.

Tương tự, là các “tờ trình”, “đơn đề nghị” được tiếp nhận nguồn vốn ủy thác của các quỹ nhân đạo, quỹ đầu tư, quỹ tài chính quốc tế… có trụ sở tại nước ngoài. Tuy nhiên, qua xác minh, tìm hiểu, các quỹ này không có thật hoặc có rất ít thông tin liên quan đến hoạt động, đại diện các quỹ thậm chí đang bị cơ quan chức năng nước sở tại truy thu thuế, thu hồi giấy phép…

Sau khi đã tiếp cận, tạo được lòng tin, các đối tượng thường yêu cầu cá nhân, tổ chức có nhu cầu tiếp nhận/vay vốn chi trả các khoản chi phí (đi lại, giao dịch, làm thủ tục, mời chuyên gia nước ngoài thẩm định dự án...), tiền đặt cọc, tiền góp vốn, nếu có nhu cầu xem các giấy tờ có liên quan đến nguồn tiền thì phải “chi phí” để kết nối với cấp lãnh đạo, cơ quan nhà nước đang nắm giữ với lý do tài liệu “mật”... và tìm cách chiếm đoạt.

Đây là các thỏa thuận miệng, hợp đồng hợp tác có tính chất dân sự, khi có đơn thư tố cáo, các đối tượng sẽ thỏa thuận đền bù theo hình thức dân sự để tránh bị xử lý theo pháp luật về hình sự, nhưng sau đó sẽ tiếp tục tìm cách trì hoãn trả lại tiền hoặc trả thành nhiều lần. Một số cá nhân khi bị triệu tập làm việc đã khai báo không có bản gốc hoặc được các đối tượng khác (mà bản thân họ cũng không xác định được nhân thân, lai lịch) cung cấp nên cơ quan Công an rất khó khăn trong truy nguyên và xử lý; hoặc sử dụng các văn bản trả lời, tiếp nhận của cơ quan chức năng để sửa chữa nội dung, tạo niềm tin đối với các cá nhân/doanh nghiệp để hoạt động lừa đảo...

Với nhiệm vụ được phân công, Cục An ninh Kinh tế đã phối hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thẩm tra các chứng từ giả mạo của ngân hàng; tổ chức tuyên truyền, cảnh báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng; chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương, các bộ, ban, ngành về phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng để phòng ngừa, ngăn chặn không để các đối tượng lợi dụng hoạt động lừa đảo. Phối hợp Công an các địa phương xác minh, làm rõ hoạt động của các đối tượng liên quan và có biện pháp răn đe, cảnh cáo; đấu tranh, làm rõ hoạt động lừa đảo của các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật.

Các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước cần cảnh giác với thủ đoạn hoạt động nghi vấn liên quan đến lừa đảo qua hình thức tiếp nhận vốn nước ngoài của các đối tượng, không để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hoặc chính bản thân sẽ bị vướng vào vòng lao lý. Trong trường hợp bị các đối tượng lừa đảo, cần thông báo đến cơ quan Công an để được hướng dẫn.

Xuân Mai - Báo điện tử CAND

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 – Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

(TG) - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang vàng chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam; mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; để lại bài học quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc (ĐĐKDT), có giá trị lý luận, thực tiễn và tính thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Khu vực Dinh độc lâp 30/4/1975. Ảnh tư liệu

NHỮNG BÀI HỌC QUÝ BÁU

Một là, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén, kịp thời của Đảng là nhân tố quyết định phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi vang dội của các hướng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam tạo bước ngoặt căn bản về tương quan so sánh giữa lực lượng giữa ta và địch; ta giành thế chủ động tiến công chiến lược, nhất là sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên đã xuất hiện nhân tố mới, trực tiếp làm xoay chuyển cục diện chiến trường, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam từ hai năm (1975 - 1976) lúc đầu, sang kế hoạch rút xuống còn một năm, rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa, tốt nhất là trong tháng 4/1975; đồng thời, tổ chức các đòn tiến công chiến lược vào những địa bàn, mục tiêu chiến lược của địch, tạo thời cơ chín muồi cho ta mở trận quyết chiến chiến lược tại Sài Gòn - Gia Định bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh. Những quyết sách đóđã trở thành ngọn cờ hiệu triệu toàn dân, toàn quân phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, tạo “sự đồng tâm của đồng bào đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc” tiến hành tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, đánh tan ngụy quân, xóa bỏ ngụy quyền, giải phóng, thống nhất đất nước; với khí thế thần tốc, táo bạo, bất ngờ, một ngày bằng hai mươi năm… xốc tới mặt trận quyết chiến, quyết thắng, v.v..

Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu

Hai là, phát huy vai trò của mặt trận đoàn kết trong vận động, tập hợp lực lượng, tạo cơ sở vững chắc cho củng cố và tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều đặt dước sự lãnh đạo của Đảng và có chung mục đích tập hợp, đoàn kết, huy động mọi nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân, thực hiện “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”,vì mục tiêu toàn thắng, thống nhất đất nước. Mặt trận đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc, các nhân sĩ, trí thức yêu nước và tiến bộ, không phân biệt tuổi tác, giới tính…ở hai miền, đồng tâm, hợp lực vượt qua mọi khó khăn giankhổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời, khai thác những nội dung tương đồng về mục tiêu hoạt động củatổ chức Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam để mở rộng khối ĐĐKDT. Qua đó, tuyên truyền, bảo vệ cuộc đấu tranh chính nghĩa và lập trường hòa bình của nhân dân Việt Nam; vạch trần tính chất phi nghĩa, phản động của cuộc chiến tranh do Mỹ - ngụy gây ra; tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới… nhằm cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng và phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Ba là, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp tiến hành công tác vận động quần chúng để phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho tổng tiến công và nổi dậy.Trung ương Cục, Quân ủy Miền đã chủ động, sáng tạo xây dựng các giải pháp, nội dung, mục tiêu công tác vận động quần chúng phù hợp với điều kiện thực tiễn của các vùng miền, địa phương và đặc điểm của công nhân, nông dân, nhân sĩ, trí thức, thanh niên, học sinh, sinh viên, thân nhân binh sĩ…; được tiến hành bằng nhiều hình thức sáng tạo, linh hoạt, như: Công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận… với mục tiêu đòi chấm dứt chiến tranh, giải tán ngụy quân, giải thể ngụy quyền; nhằm quy tụ và phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Hiệu quả công tác vận động quần chúng và những thắng lợi vang dội từ chiến trường góp phần phát huy cao độ khí thế, tinh thần cách mạng tiến công của quân và dân ta; đồng thời, đánh sập ý chí chiến đấu, sức phản kháng của địch, đẩy ngụy quyền Sài Gòn vào tình thế lúng túng, bị động, hoang mang tột độ; tạo thời cơ lớn để tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Qua đó, cổ vũ động viên đồng bào, chiến sĩ cả nước củng cố niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, vào thành công của tổng tiến công và nổi dậy; thể hiện sự thống nhất “ý Đảng - lòng Dân”, “trên dưới đồng lòng” kết thành sức mạnh vô song của khối ĐĐKDT.

Bốn là, kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác binh vận và đấu tranh với sự chống phá của kẻ thù để củng cố, phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương Cục đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức, lực lượng trên toàn miền Nam quán triệt, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác binh vận; coi công tác vận động quần chúng, binh vận là một trong những mũi tấn công quan trọng, “thắng địch bằng công tác binh vận cũng quan trọng như thắng địch bằng tác chiến”. Triển khai quán triệt, tuyên truyền sâu rộng, thực hiện nghiêm 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm thời và Chỉ thị số 218-CT/TW ngày 18/4/1975 của Ban Bí thư về chính sách đối với tù, hàng binh trong tình hình mới, nhất là đối với binh sĩ khởi nghĩa, binh sĩ giác ngộ trở về với cách mạng và tù binh(1), v.v.. Huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vận động, giác ngộ, cảm hóa binh lính, nhân viên, các phe phái trong nội bộ ngụy quân, ngụy quyền trở về với gia đình, với cách mạng; chú trọng vận động binh sĩ rã ngũ tập thể, buông súng, từ chối chấp hành nhiệm vụ, phản chiến, khởi nghĩa, chủ động từ bỏ hàng ngũ địch sang hàng ngũ cách mạng, v.v.. Đồng thời, đấu tranh, trừng trị, cô lập những kẻ ngoan cố, chống đối và những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của cách mạng; vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thổi phồng vấn đề “dân tị nạn”, “cuộc tắm máu”, cổ vũ tư tưởng “tử thủ”, kích động hận thù giai cấp, dân tộc của Mỹ - ngụy, nhằm nói xấu cách mạng và tạo cớ cho Mỹ tiếp tục can thiệp vào miền Nam. Hiệu quả của sự kết hợp đó đã “làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng”(2), hạn chế hy sinh, đổ máu, Sài Gòn và các đô thị của miền Nam hầu như nguyên vẹn.

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ TÍNH THỜI SỰ SÂU SẮC

Quán triệt, vận dụng bài học phát huy sức mạnh ĐĐKDT của Đảng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với phát huy sức mạnh ĐĐKDT.Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(3), nhằm khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ, sự quản lý của Nhà nước là phương thức bảo đảm để ĐĐKDT thực sự là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể xã hội và các tầng lớp nhân dân trong quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo toàn dân đoàn kết, chung tay cùng hệ thống chính quyền các cấp phòng, chống, khắc phục hậu quả dịch bệnh; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bộ đội ta tấn công sân bay . Ảnh tư liệu

Thứ hai, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong củng cố, tăng cường sức mạnh ĐĐKDT, đáp ứng sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc cần “phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị”(4).Tích cực vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng vững mạnh về “chính trị, tư tưởng, đạo đức tổ chức và cán bộ”, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; thực hành dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các chương trình mục tiêu quốc gia… do Đảng, Nhà nước phát động. Mặt trận Tổ quốc đã kịp thời cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo, lời kêu gọi của Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ và lãnh đạo Đảng, Nhà nước thành phong trào, chương trình hành động thiết thực; huy động hàng chục tấn trang thiết bị, vật tư y tế, hàng chục triệu liều vaccine, hàng nghìn tỷ đồng… để triển khai các biện pháp bảo hộ công dân bằng những chuyến bay giải cứu đồng bào tại các tâm dịch, vùng chiến sự và thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phòng, chống, thích ứng an toàn, kiểm soát hiệu quả, từng bước bình thường hóa dịch bệnh COVID-19, nhằm hạn chế sự tác động của dịch bệnh và xung đột vũ trang xảy ra ở một số nước trên thế giới, bảo vệ quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân.

Kỷ niệm 47 năm Đại thắng mùa xuân năm 1975 là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ôn lại quá khứ đấu tranh hào hùng của quân và dân ta; tưởng nhớ, tri ân chiến sĩ, đồng bào anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước và rút ra những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh ĐĐKDT của Đảng. Quán triệt, vận dụng bài học đó trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, tình cảm, niềm tin, niềm tự hào của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, chung sức, đồng lòng thực hiện khát vọng xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ ba, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức tiến công tác vận động quần chúng và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước…góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”(5), nhằm tạo sự nhất trí, đồng thuận về chính trị tinh thần rộng rãi trong nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Theo đó, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược do Đại hội XIII xác định; các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, cuộc vận động, phong trào thi đua của Đảng, Nhà nước phát động… nhằm thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo và khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Những tấm gương cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Y, lực lượng vũ trang và đội ngũ tình nguyện viên, cùng sự ủng hộ vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, kiều bào trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 là biểu hiện sinh động nhất về hiệu quả đổi mới nội dung, phương thức phát huy sức mạnh khối ĐĐKDT của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể thành viên hiện nay.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ công tác vận động quần chúng với công tác đối ngoại và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối ĐĐKDT của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, bạn bè quốc tế nhận thức sâu sắc hơn, đồng thuận hơn về chủ trương, đường lối “đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(6) của Đảng. Triển khai hiệu quả nội dung đối ngoại nhân dân, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, góp phần huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Đồng thời, tích cực chủ động, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng các vấn đề: “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”; những hạn chế, yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội, trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và dịch bệnh COVID-19… để xuyên tạc, chống phá và chia rẽ khối ĐĐKDT./.


Đại tá, TS. Thái Doãn Tước

Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Trung tá, ThS. Thái Doãn Hùng

Trường Sĩ quan Pháo binh

----------------

GHI CHÚ:

(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.36, tr.122, 173.

(3) (4) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 192, 70, 70, 101.

Để xứng danh Đảng cầm quyền

(TG) - Để xứng danh Đảng cầm quyền, trong tình hình hiện nay, Đảng phải “đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn...”(1). Đây là bài học lớn, được đúc rút trong suốt quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng thật sự đạo đức, văn minh _Nguồn: Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LÀ NHIỆM VỤ THEN CHỐT

Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, bao gồm nhiều nội dung về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền. Điều đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, nhất là kể từ Đại hội XI (2011) đến Đại hội XIII của Đảng (2021), liên tiếp ba khóa, Hội nghị Trung ương 4 đã tập trung bàn về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Điều này phản ánh quyết tâm chính trị, tầm chiến lược của Đảng, khẳng định ý nghĩa sống còn mang tính toàn diện, trọng tâm và sâu sắc trong xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và phát triển đất nước.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều quốc gia. Trên thế giới, không có nước nào là không có đảng hoặc tổ chức chính trị tương tự lãnh đạo. Dù một đảng hay đa đảng đều rất chú ý về xây dựng tổ chức, củng cố lực lượng và định hướng phát triển. Lịch sử đã để lại bài học thấm thía cho những người cộng sản về sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1991, khi đó có khoảng 21 triệu đảng viên nhưng “Đảng đông mà không mạnh”, bởi sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và một số lãnh đạo cao cấp của Đảng mắc sai lầm về đường lối, sa vào chủ nghĩa cá nhân, rơi vào chủ nghĩa xét lại. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, ở những nước có nhiều đảng, mặc dù đều có những liên minh lỏng lẻo, ý thức hệ linh hoạt, tập trung chủ yếu vào những định hướng thực dụng trong quá trình tranh cử cầm quyền, nhưng mỗi đảng đều chú trọng phát triển cơ cấu lực lượng đảng viên để tạo ảnh hưởng và gia tăng sự ủng hộ của dân chúng.

Trách nhiệm chính trị đặt ra cho Đảng ta và hệ thống chính trị ngày càng to lớn, nặng nề, nhiều thách thức, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo hơn nữa, nâng cao hơn nữa năng lực cầm quyền và sức chiến đấu. Đại hội XIII của Đảng xác định thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số đạt khoảng 20% GDP; đến năm 2030 đạt khoảng 30% GDP, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới về Chính phủ điện tử, kinh tế số, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để thực hiện được khát vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc cần tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước ở tầm cao mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Các vấn đề về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), xây dựng văn hóa và con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia,… và bốn nguy cơ là thách thức đặt ra đòi hỏi Đảng và hệ thống chính trị phải giải đáp và giải quyết về lý luận và thực tiễn hiện nay.

Hiện nay, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, mau lẹ, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn, các cuộc chiến tranh và xung đột; những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế, suy thoái tài chính, khủng hoảng nợ công, thế lực cực đoan,… chưa được giải quyết mà ngày càng biểu hiện rõ ràng với nhiều sắc thái mới. Điều đó tác động nghiêm trọng đối với Việt Nam, trong đó có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm, lý tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong nước có sự gia tăng những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những phần tử “trở cờ”, “ngụy khoa học” bày tỏ ý kiến trái với đường lối và chính sách. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được những thành tựu lớn, song vẫn còn hạn chế trong việc để “lọt” những cán bộ thoái hóa, biến chất; việc khắc phục hậu quả tham nhũng, tiêu cực chưa đạt mong muốn, gây băn khoăn, lo lắng trong xã hội và ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân. Đây là thách thức và cảnh báo thường trực đối với Đảng ta hiện nay.

Sự chống phá ngày càng quyết liệt, điên cuồng, tinh vi của các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, họ không ngừng sử dụng đa dạng các loại hình chiến lược, chiến dịch, quy mô, trong đó tập trung vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, có yếu tố dân tộc và tôn giáo, kích động vấn đề dân chủ và nhân quyền, thâm nhập hoạt động tư tưởng - văn hóa, sử dụng các đối tượng “chống cộng”, tổ chức phi chính phủ, những phần tử “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và thế hệ trẻ Việt Nam; đầu tư có bài bản, có kế hoạch, có tổ chức lực lượng và chiến lược lâu dài hòng phá ta từ bên ngoài và nội bộ bên trong nhằm phá rã niềm tin của nhân dân và cán bộ, gieo rắc hoài nghi, phủ nhận thành tựu, bôi đen hiện thực... từ đó đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; trên không gian mạng, các phần tử chống phá không ngừng tung ra bài viết, video bịa đặt, xuyên tạc, vu cáo về một số lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đưa ra những thông tin kéo bè kết cánh, đấu đá chính trị nhằm chia rẽ nội bộ, gây nhiễu loạn, phân tâm trong nội bộ và nhân dân.... Điều này càng đặt ra công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm trọng điểm.

CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

Đảng ta đặt vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, tiếp tục phát triển nhận thức mới, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị là thống nhất trong một chỉnh thể, bởi vì Đảng vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị theo mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng đất nước Việt Nam XHCN. Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Trên thực tế, hệ thống chính trị nước ta hội tụ toàn bộ hệ thống các quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã hội.

Xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị là thống nhất trong một chỉnh thể, bởi vì Đảng vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị theo mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Mục tiêu cao nhất của việc củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị là nhằm bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống và lợi ích của nhân dân. “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người… Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(2). Đại hội XIII khẳng định: “Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay...”(3). Do vậy, cần tiếp tục củng cố vững chắc niềm tin và mối quan hệ bền chặt của nhân dân đối với Đảng và chế độ; khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo, đóng góp thiện chí và tích cực của nhân dân đối với việc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Từ kết quả tích cực trong việc kiện toàn, sắp xếp lại cơ quan các ban đảng Trung ương, các cơ quan trực thuộc Chính phủ, các đơn vị trực thuộc một số bộ, ngành, tỉnh, thành phố, tiếp tục tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị.

Thời gian tới, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải đặc biệt coi trọng và phát huy tính chủ động, tích cực trong quản lý, điều hành từ Trung ương đến địa phương; hoàn thiện hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của một nhà nước phục vụ, kiến tạo phát triển; thực hiện tốt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, xây dựng chính phủ số, chính quyền số, hạ tầng số, kinh tế số mang tính liên thông, đồng bộ, hoàn chỉnh và các cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Việc áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong phát triển các dịch vụ hành chính, dịch vụ xã hội số phải góp phần đẩy mạnh tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Xây dựng, đổi mới công tác cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gắn với việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và củng cố các tổ chức chính trị - xã hội; vừa phát huy tính tích cực của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị.

Trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn về mặt thể chế, tổ chức, phương thức hoạt động và kiểm soát quyền lực của các thành viên trong hệ thống chính trị. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong hệ thống chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện về mọi mặt của Đảng. Có cơ chế thí điểm, đột phá sáng tạo, trọng điểm và có lộ trình tổng kết, đánh giá trong đề án xây dựng, hoàn thiện thể chế, chức trách của một số cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị.

Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ chế độ và nhân dân cho đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đội ngũ này có “tài”, “đức” thì tổ chức mới mạnh, các tổ chức trong hệ thống chính trị có trong sạch, vững mạnh thì Đảng mới giữ vững vai trò cầm quyền của mình. Trong các tổ chức, cần phát huy ý thức trách nhiệm “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, luôn luôn trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện tốt văn hóa ứng xử và đạo đức công vụ. Trong quá trình đó, “Củng cố và xây dựng tổ chức đảng thật trong sạch, khắc phục những tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ trung thành của nhân dân”(4) luôn là một nhiệm vụ then chốt.

THÚC ĐẨY MẠNH MẼ NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XIII TRONG ĐỜI SỐNG

Nhận thức của Đảng mang tính nhất quán, liền mạch, được bổ sung, phát triển, thể hiện quyết tâm cao độ từ các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, từ Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đến Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các nghị quyết đã được triển khai sâu rộng, tích cực và hiệu quả trong thực tiễn, trở thành nội dung quan trọng và thường xuyên trong tổ chức hoạt động và sinh hoạt của mỗi tổ chức cơ sở đảng và trong hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, chuyển biến quan trọng đạt được, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm cần tiếp tục quán triệt và khắc phục. Đó là, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...

Bước vào thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi tiếp tục coi trọng đặc biệt và nâng tầm cao mới đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Thúc đẩy mạnh mẽ việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII trong thực tiễn từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị và từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; tạo bước đột phá và chuyển biến tích cực, hiệu quả trong nhận thức và hành động, trong tư tưởng và thực hành hằng ngày. Mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu triển khai, quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo công việc luôn luôn gắn với những giải pháp cụ thể trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng cơ quan, đơn vị.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở đảng, coi việc thực hiện các nguyên tắc sinh hoạt đảng là yêu cầu sống còn của tổ chức, góp phần nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; kịp thời phát hiện và ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, phai nhạt lý tưởng, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của mỗi tổ chức và cán bộ, đảng viên.

Đẩy mạnh công tác tham mưu, nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm để có những chương trình, dự án, đề tài thiết thực nhằm phổ biến, nhân rộng các mô hình, cách làm hiệu quả trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tăng cường hoạt động phối hợp, chia sẻ hợp tác giữa các cơ quan Đảng, các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị với các trung tâm nghiên cứu khoa học chuyên sâu nhằm đánh giá, tổng kết, đưa ra dự báo, đề ra phương hướng và giải pháp toàn diện, thiết thực trong việc hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, trong kiện toàn và sắp xếp bộ máy chính quyền, trong công tác dư luận và phản biện xã hội, trong hoạch định chính sách phát triển xã hội, trong định hướng thông tin và nâng tầm quản lý các cơ quan báo chí truyền thông và mạng xã hội…

Tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ trẻ có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và phong cách tốt, có năng lực và trình độ vững vàng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng gắn với việc thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, cấp ủy các cấp trong công tác tự kiểm tra, đánh giá, trong quy trình thực hiện chức trách, trong quản lý chuyên môn, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, trong việc phát hiện và đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong việc chấn chỉnh và xử lý vi phạm của cán bộ, đảng viên./.

PGS. TS. Đỗ Xuân Tuất - TS. Lê Trung Kiên

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

______________________

(1) (2) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022 tr.29, 21-22.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021 t.II, tr.220.

(4) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2017 tr.167.

Đất mẹ bao dung

[CAND] Một số người chống đối, từng “bên kia chiến tuyến”, sau giải phóng thì ra nước ngoài, từ đó giữ cách nhìn thù hận về đất nước, quê hương. Khi được vận động trở về, họ cho rằng, không có khái niệm hòa hợp, một đi là không thể quay về. Quan niệm đó đang chứng tỏ sự bảo thủ, định kiến trước sự đổi mới, mở cửa của đất nước cũng như truyền thống bao dung, chung lòng đất mẹ, ân nghĩa một nhà…

Luật sư Hoàng Duy Hùng, người từng đắc cử Nghị viên Hội đồng thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ trong cuộc bầu cử ngày 12-12-2009, người có quá khứ chống đối quyết liệt, cho rằng “không trở về” thì nay đã là con người có cách nhìn khác.

Ông nói: “Tôi chống Đảng, Nhà nước từ năm 1984 và trở thành một đảng viên trung ương của đảng Đại Việt vào năm 1986. Khi được tổ chức cử về nước, lúc đó quê hương còn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị bao vây, cấm vận từ nhiều phía”.

Sau khi bị bắt giữ, xử lý, rồi được trả tự do vào năm 1993 thì đất nước ta vẫn còn nghèo, Hoàng Duy Hùng mang tư tưởng chống đối và tiếp tục có các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, dần dần nhận thức trong ông đã thay đổi.

“Tôi yêu đất nước này. Chính bởi lòng yêu nước giúp tôi hiểu rằng mình là con của mẹ Việt Nam. Mẹ tôi có thể có lúc nghèo khổ, áo rách nhưng đó là mẹ tôi. Mẹ tôi có những lúc mặc áo sang trọng cũng là mẹ tôi. Mẹ tôi càng nghèo khổ thì tôi càng thương hơn và phải có trách nhiệm là làm cho mẹ tôi được hạnh phúc, đó là bổn phận và trách nhiệm. Tôi quan niệm, nếu đất nước gặp khó khăn thì phàm là đàn ông phải “làm trai cho đáng lên trai” phải có trách nhiệm với mẹ mình” - luật sư Hoàng Duy Hùng chia sẻ.

Ông kể, rời quê hương khi còn rất nhỏ, ông luôn ao ước được ăn một cái Tết đầm ấm ở quê nhà. Ngày 20/1/2022, ông đáp chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam và cảm xúc lần này khác nhiều so với những lần trước bởi đây là lần đầu tiên, ông được trở về đón một cái Tết đúng nghĩa truyền thống tại quê hương, xứ sở. Sau những ngày ở trong khu cách ly, ông Hùng tham dự chương trình Xuân Quê hương. “Giờ phút được đứng tại Nhà hát Lớn, nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc tung bay, tôi có một cảm xúc đặc biệt mà chỉ những người con xa quê mới có thể hiểu được” – luật sư bày tỏ.

Kiều bào về thăm Trường Sa

Gần nửa thế kỷ sau chiến tranh, thống nhất đất nước, câu hỏi về sự hòa hợp dân tộc giữa đất nước, nhân dân Việt Nam với những người Việt di cư sang Mỹ vẫn là vấn đề lớn. Suy ngẫm sâu xa truyền thống nhân văn của dân tộc “đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, sự bao dung, độ lượng của đồng bào dòng máu Lạc Hồng cùng với xu thế hòa bình, hợp tác toàn cầu, việc gác lại hận thù, cùng đoàn kết hướng về nguồn cội là yêu cầu, đòi hỏi khách quan.

Hòa hợp dân tộc ở Việt Nam là một khái niệm để chỉ sự hòa giải những mâu thuẫn trong nội bộ người Việt phát sinh từ năm 1945 đến ngày nay, trong đó vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc được nhắc đến nhiều sau Hiệp định Paris và sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh, nguyên thành viên đoàn đàm phán Hiệp định Paris 1973 từng kể, khi ông sang dự một hội thảo liên quan đến chiến tranh Việt Nam tại Đại học Brown (Mỹ), ban tổ chức có bố trí một chương trình giao lưu với các giáo sư và khoảng một ngàn sinh viên. Một sinh viên đã hỏi: “Thưa ngài đại sứ, Việt Nam đã chiến thắng Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc nhưng tại sao lại có chuyện hàng triệu người bỏ nước ra đi?”.

Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh trả lời, việc có hàng triệu người rời Việt Nam sang Mỹ sau năm 1975 là sự thật lịch sử. Điều này có nhiều nguyên do. Thứ nhất là trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội, các nhà chức trách Mỹ cũng như chính quyền Sài Gòn qua mấy đời tổng thống đều tuyên truyền “nếu Việt Cộng giải phóng sẽ có “tắm máu””. Việc tuyên truyền như vậy khiến nhiều người lo lắng nên sau 30-4-1975 họ tìm cách ra đi càng nhanh càng tốt. Những người ra đi gồm người thuộc chính quyền Sài Gòn cũ, những người thấy ở lại làm ăn không thuận lợi, một số người giàu có và số khác không thuộc các thành phần trên cũng đi vì sợ “tắm máu”. Một số người nữa thấy kinh tế Việt Nam nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên cũng kiếm đường ra đi... “Nhưng, dù nguyên nhân gì và những người ra đi khỏi Việt Nam như thế nào, chúng tôi đều coi họ thuộc dân tộc Việt Nam và luôn luôn sẵn sàng mở cửa để ai về thăm, ai về nước, ai liên lạc lại, cả ba mức đó chúng tôi đều chấp nhận, mở cửa rộng rãi” - Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh giải thích.

Việc nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ sau 30-4-1975 nằm trong bối cảnh lịch sử chịu nhiều tác động chi phối lúc bấy giờ nên không thể lấy việc di cư như vậy để phán xét, quy chụp qua lăng kính màu xám. Trong lịch sử của nhiều quốc gia trên thế giới, việc một bộ phận người dân di tản sang nước khác sau khi kết thúc chiến tranh cũng là chuyện bình thường, bởi bối cảnh hậu chiến đặt ra những vấn đề có tính quy luật khiến sự di tản khó tránh khỏi.

Sau gần nửa thế kỷ, sự di cư của người Việt sang Mỹ đã là một vấn đề lịch sử và cũng không phải là lúc ngồi soát xét lại tại sao có chuyện như vậy để đổ lỗi nguyên nhân, trách nhiệm của bên nào. Lịch sử không xoay vòng để những người di cư tìm lại câu hỏi nên đi hay ở của bối cảnh quá khứ với hiện tại. Điều quan trọng và mang tính thời sự hiện nay là làm thế nào để việc hòa hợp dân tộc được thực hiện thiết thực để người Việt dù ở bất cứ đâu, bất cứ thành phần, địa vị nào cũng đều hướng về Tổ quốc, đoàn kết vì tương lai đất nước.

Điểm cốt yếu trong hòa hợp dân tộc chính là quan điểm của “người mẹ”. Con cái có thể ruồng bỏ cha mẹ mà đi nhưng trong trái tim người mẹ đọng lại là sự bao dung, độ lượng, sẵn sàng dung thứ khi người bỏ đi nhận ra lẽ phải. Tháng 6-2007, trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc gặp gỡ kiều bào tại quận Cam - một địa chỉ hội tụ đông đảo người Việt di cư sau 30-4-1975.

“Chúng ta nghĩ Tổ quốc là cái gì xa xôi nhưng “Quốc văn giáo khoa thư” nói rằng, đó là những gì gần gũi nhất... Tôi mong bà con của mình, hãy vì quê hương đất nước, gác bỏ những khác biệt của mình, hãy đoàn kết lại, cùng nhau xây dựng Mẹ hiền Việt Nam, đất nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường... Nếu ai đó còn có ngần ngại, còn có bất đồng, chúng ta hãy nói với các bạn ấy rằng Mẹ hiền Việt Nam lúc nào cũng dang rộng cánh tay đón nhận tất cả những người con của mình về với Tổ quốc. Không có lý do gì, sự bất đồng gì ngăn cản sự đoàn kết, thống nhất quốc gia trong sự nghiệp phát triển, xây dựng đất nước của chúng ta. Tôi cũng đề nghị với những người có những cử chỉ bất đồng, chúng ta hãy cho họ hiểu rằng những thông tin đưa đến cho họ chưa đầy đủ. Họ chưa có điều kiện trực tiếp quay về quê hương đất nước, trực tiếp chứng kiến những đổi thay nhanh chóng, những tiến bộ đang diễn ra trên đất nước chúng ta” - Chủ tịch nước chia sẻ.

Chủ tịch nước phân tích: “Trong một gia đình 5-7 người đôi khi còn có những bất hòa. Trong một đất nước rộng lớn với hơn 80 triệu dân và 54 dân tộc khác nhau, nếu có những khác biệt, tôi nghĩ cũng là điều dễ hiểu. Chúng ta phải làm sao để thông cảm lẫn nhau, chia sẻ lẫn nhau và từng bước đạt được tiếng nói chung, vì mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh”. Khi đó, khoảng một ngàn kiều bào đại diện cho cộng đồng người Việt tại quận Cam và nhiều tiểu bang khác của Mỹ đã đồng loạt đứng lên vỗ tay xúc động khi nghe những lời chia sẻ từ Chủ tịch nước Việt Nam.

Tổ quốc dang rộng vòng tay với cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới không chỉ là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc mà đã trở thành hành động chính trị của đất nước. Một trong những chủ trương được Đảng ta khẳng định rõ là: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc” (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài).

Dù đã có những chuyển biến trong nhận thức, hành động thì một sự thật là cho đến nay, sau gần 5 thập kỷ chấm dứt chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề hòa hợp dân tộc vẫn còn đó những điều chưa được khỏa lấp. Trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, vẫn còn đó những người chống đối sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước Việt Nam, thậm chí chống đối quyết liệt suốt gần nửa thế kỷ qua. Không thay đổi nhận thức với chính mình, họ lại truyền bá tư tưởng này cho con cái, định hình một cách nhìn lệch lạc, thù hận về nơi vốn là gốc gác, tổ tiên của mình, dòng họ mình.

Hơn lúc nào hết, những người con ở xa đất mẹ cần nhìn nhận rõ truyền thống và xu hướng thời đại, vượt lên ranh giới để đoàn kết, hướng về nguồn cội. Tất cả cần bằng sự chân thành, hòa hợp chứ không phải là đưa ra các điều kiện để đong đếm “thương lượng”, hay sự mặc cả thương mại, hay ý đồ không trong sáng.

An Nhi

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2022

Tạo khuôn khổ pháp lý huy động quần chúng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở

[CAND] Đây là quan điểm của TS Nguyễn Xuân Trường, Vụ trưởng Vụ Địa phương I, Ban Nội chính Trung ương đối với việc xây dựng dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, phục vụ đắc lực sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đồng thời bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người theo quy định của Hiến pháp.

Cần hệ thống pháp luật đồng bộ, sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền

Góp ý vào việc xây dựng dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, bà Nguyễn Hương Giang, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh cho biết, Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, là cửa ngõ nối các tỉnh biên giới phía Bắc với Thủ đô Hà Nội, có nhiều trục giao thông quan trọng chạy qua, thuận tiện cho việc đi lại, giao thương phát triển kinh tế...

Những năm qua, Công an xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố, tổ dân phòng tự quản khu dân cư đã phát huy được vai trò nòng cốt trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, làm tốt công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng phát triển.

Lực lượng Công an phối hợp Công an xã bán chuyên trách, người có uy tín vận động, tuyên truyền pháp luật cho người dân.

Do sự quan tâm, chăm lo của HĐND, UBND tỉnh đối với các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở cả về phụ cấp, chế độ chính sách ngày càng nâng cao, đồng thời ghi nhận, đánh giá cao vai trò quan trọng của lực lượng này nên những năm qua họ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm ANTT ở cơ sở. Từ thực tế đó, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh kiến nghị Bộ Công an đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật về Công an xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, dân phòng theo hướng sớm xây dựng Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở điều chỉnh toàn diện các mặt công tác của các lực lượng trên.

"Bảo đảm ANTT là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối với địa bàn cơ sở, để đáp ứng yêu cầu bảo đảm ANTT trong tình hình mới cần phát huy hơn nữa vai trò của các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, trong đó đòi hỏi sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trên cơ sở hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất là trong thực hiện chế độ, chính sách với lực lượng này thời gian tới", bà nhấn mạnh.

Theo TS Nguyễn Xuân Trường, thực tế các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở đã có và đang hoạt động hằng ngày, đóng góp, vai trò to lớn trong việc đảm bảo ANTT ngay từ địa bàn cơ sở, chứ không phải xây dựng luật này để tổ chức một lực lượng mới. Họ được ví như "cánh tay nối dài", "không thể thiếu" của lực lượng Công an chính quy trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. "Tăng cường bảo vệ ANTT ở cơ sở rất quan trọng, vấn đề này cần được triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước chứ không riêng ở một vài địa phương. Nếu ANTT ở cơ sở không được đảm bảo thì tác động tiêu cực đến thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội", TS Nguyễn Xuân Trường phân tích.

Ông cũng cho rằng, nhiệm vụ bảo đảm ANTT tại cơ sở là một nhiệm vụ rất quan trọng để góp phần thực hiện phương châm "4 tại chỗ": "chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ" theo quan điểm chỉ đạo của Đảng". Vì vậy, việc xây dựng, ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là cần thiết nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng, tạo khuôn khổ pháp lý đủ mạnh, tương xứng để tiếp tục tập hợp, huy động, sử dụng các lực lượng quần chúng tham gia phối hợp, hỗ trợ lực lượng Công an chính quy trong công tác bảo đảm ANTT ở cơ sở, phục vụ đắc lực sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đồng thời bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người theo quy định của Hiến pháp.

Ông đề xuất quy định lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở được hưởng một số chế độ, chính sách cụ thể như: được hỗ trợ chế độ phụ cấp thường xuyên hằng tháng; hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế; được trang bị công cụ hỗ trợ, hồ sơ, sổ sách cần thiết để thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm trang phục, huy hiệu, phù hiệu, biển hiệu, giấy chứng nhận dể thực hiện nhiệm vụ... Lực lượng này chịu sự giám sát của HĐND, sự quản lý của UBND cấp xã và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Công an cấp xã trong công tác bảo đảm ANTT tại địa bàn cơ sở.

Kiện toàn, tinh gọn đầu mối

Từ kinh nghiệm tại địa bàn cơ sở, Ban Thường vụ Huyện ủy Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An cho rằng, đối với sự nghiệp bảo vệ ANTT, thực tiễn đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và vai trò nòng cốt của lực lượng CAND, quần chúng nhân dân được tập hợp vào các phong trào, đặc biệt là phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã phát huy vai trò tích cực và có những đóng góp hết sức to lớn, góp phần cùng lực lượng CAND giữ vững ổn định ANTT, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Quỳnh Lưu là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Nghệ An, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh. Đây cũng là một trong những huyện có dân số đông nhất, tốc độ tăng trưởng khá, nhiều điều kiện thuận lợi trong giao thương nhưng cũng tiềm ẩn các yếu tố tác động tới ổn định chính trị và ANTT, đặt ra khó khăn, thách thức với nhiệm vụ, công tác bảo vệ ANTT và xây dựng, củng cố lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở.

Tuy nhiên, do xác định rõ vị trí, vai trò của lực lượng này nên cấp ủy, chính quyền huyện Quỳnh Lưu luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở; quan tâm, bảo đảm điều kiện làm việc cho Công an xã nói chung, lực lượng bảo đảm ANTT ở cơ sở nói riêng.

Do đó, các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở đã hỗ trợ lực lượng Công an chính quy trong công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý cư trú, phòng cháy chữa cháy, trật tự an toàn giao thông, vận động nhân dân giao nộp vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

Đây là lực lượng nòng cốt trong xây dựng các mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, như: "Tổ tự quản", "Dòng họ an toàn" "Xứ họ đạo bình yên, chung tay xây dựng nông thôn mới"..., đặc biệt mô hình "Hội Cựu chiến binh với công tác đảm bảo ANTT" được Bộ Công an nhân rộng trên toàn quốc.

Trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở cùng với Công an chính quy xung kích, tuyến đầu, không quản ngại khó khăn, gian khổ, có nhiều biện pháp, cách làm thiết thực cùng nhân dân chống dịch...

Ban Thường vụ Huyện ủy Quỳnh Lưu đề xuất cần sớm xây dựng, ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để tổ chức hoạt động và quản lý hiệu quả hơn đối với lực lượng này. Qua đó góp phần kiện toàn, tinh gọn đầu mối, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn trong thực hiện nhiệm vụ giữa các lực lượng; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật, góp phần xây dựng xã hội trật tự, an toàn, kỷ cương, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ cơ sở.

A. Quỳnh 

Không thể bẻ cong lịch sử

Gần 50 năm trôi qua kể từ ngày 30/4/1975, ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tới nay vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử. Họ cố tình khoét sâu những vết thương chiến tranh, chia rẽ dân tộc, đưa ra các luận điệu bẻ cong lịch sử bởi những động cơ, ý đồ xấu, những mưu đồ lợi ích của bản thân và các nhóm chống đối. Hành động này không chỉ là việc xét lại lịch sử mà còn là sự phá hoại tương lai.

Mỗi dịp tháng tư về, một số cá nhân, nhóm người Việt Nam ở nước ngoài lại đưa ra những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm như “tháng tư là tháng “vo gạo bằng nước mắt”, “mùa quốc hận - tháng tư đen”, hoặc đòi vinh danh chế độ tay sai “Việt Nam Cộng hòa”, thậm chí là đòi chia đôi lại đất nước giống như trước 1975. Một số đối tượng đưa lên mạng xã hội những quan điểm sai trái, coi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta “thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào”. Đáng nói, một số người dù đã được nhân dân nuôi dưỡng, trải qua những năm tháng chiến tranh, giờ đây khi đã nghỉ hưu thì tự cho mình là người có quan điểm “cấp tiến”, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc “tử tế”.

Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu

Tất cả những việc làm đó hướng đến mục đích làm sai lệch lịch sử, đối tượng hướng đến là giới trẻ, những người sinh ra sau ngày 30/4/1975 vốn không phải trải qua những năm tháng chiến tranh đau thương, mất mát để thấu hiểu ý nghĩa của độc lập, thống nhất và hòa bình.

Ý đồ những luận điệu sai trái này nhằm mang đến cách nhìn lệch lạc, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 và sự nghiệp kháng chiến của dân tộc ta ròng rã mấy thập kỷ là cái giá phải trả quá đắt, là một sai lầm, làm cho dân tộc đau thương, chậm phát triển đất nước. Từ đó, các đối tượng hướng lái vấn đề, quy trách nhiệm cho Đảng ta, con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn. Đây là một nhận thức phi lịch sử, muốn phủ nhận chiến thắng của nhân dân ta, đồng thời phủ nhận cả lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên trì xây dựng. Cách nhìn của các đối tượng xấu muốn đánh đồng người chiến thắng và kẻ thất bại, xóa nhòa mục đích, tính chất, bản chất sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn với hình thức chính thể “Việt Nam cộng hòa” trong cơn bão táp cách mạng giải phóng miền Nam 30/4/1975 là bằng chứng rõ ràng về sự phá sản, thất bại của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa đế quốc.

Đó là sự phá sản, thất bại của các thế lực xâm lược bên ngoài hòng áp đặt ách thống trị, nô dịch, áp bức, bóc lột nhân dân ta ở miền Nam, được ngụy trang và biện minh bằng những lời lẽ tốt đẹp, những “học thuyết” và “chính sách” tô vẽ cho dân chủ, tự do, cho tiến bộ và phát triển đầy giả dối theo hệ giá trị của Mỹ.

Đã có rất nhiều tiếng nói từ những người ở phía bên kia chiến tuyến sau này thừa nhận sai lầm của họ và ghi nhận chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam cũng như chiến công của những người cộng sản.

Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam cộng hòa, sau này trả lời phỏng vấn báo chí đã nói: “Chiến thắng 30/4 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam... Không còn chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh mang lại”.

Ngay cựu Thủ tướng Việt Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ khi nhận xét về việc một số người gọi ngày 30/4 là “quốc hận” và đòi “phục quốc”, ông đã nói rằng: “Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây đâu mà phục quốc?”.

Chiến thắng 30/4/1975 là sự khẳng định với toàn thể thế giới về ý chí, nghị lực, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất non sông. Khát vọng thống nhất non sông, bảo vệ chủ quyền đất nước là một sức mạnh vô song có thể giúp một dân tộc nhỏ, với tính chính nghĩa làm nên những chiến công hiển hách, vĩ đại.

Quá khứ phải lùi lại, lịch sử sang trang mới. Tuy nhiên, có những sự kiện lịch sử thời gian càng lùi xa càng tỏa sáng, càng nghiền ngẫm càng nhận ra những giá trị mới mẻ, vĩ đại, càng có sức lôi cuốn, là động lực tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong các chặng đường cách mạng tiếp theo. Ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một trong những sự kiện huy hoàng như vậy.

Gần 50 năm đã trôi qua kể từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, thời gian càng lùi xa, chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc Việt Nam càng nổi bật tầm vóc và ý nghĩa lịch sử. Các thế hệ người Việt Nam càng cảm nhận đầy đủ, sâu sắc hơn giá trị và bài học của chiến công chói lọi này.

Nhân dân Việt Nam luôn thiết tha, yêu chuộng hòa bình, khát vọng độc lập, tự do và hạnh phúc, không bao giờ mong muốn chiến tranh. Nhưng vì sinh mệnh và sự tồn vong của dân tộc, cũng như nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng đối với quốc tế mà nhân dân ta, cả hai miền Nam - Bắc, tiền tuyến và hậu phương buộc phải cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bao thế hệ ông cha đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do, để hôm nay chúng ta được sống trong hòa bình, tự do, mưu cầu hạnh phúc, bạn bè quốc tế đến làm ăn, sinh sống, thăm thú trong thanh bình, cùng chung tay xây dựng một đất nước ngày càng thể hiện cơ đồ, vị thế trên trường quốc tế.

Ai đó, vì bất cứ lý do gì, có tư tưởng lệch lạc, có hành vi gây mất ổn định, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc là có tội với đất nước, với anh linh của hàng triệu đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Bình Nguyên - Báo CAND điện tử

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...