ANTD.VN - Việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất trên toàn quốc để thu thập, cập nhật thông tin cơ bản của công dân Việt Nam, nhằm phục vụ quản lý Nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng thành công Chính phủ điện tử, hướng tới nền kinh tế số.
Công dân sẽ được cấp mã số định danh ghi trên Căn cước công dân và chỉ sử dụng Căn cước công dân để giải quyết các thủ tục hành chính |
Cần thiết xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư
Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30-10-2017 về đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, trong đó có phương án bãi
bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, thay vào đó là quản lý
theo số định danh cá nhân cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia.
Thực tế hiện nay, ở nước ta việc quản lý dân cư mang tính đơn lẻ, từng
bộ, ngành quản lý, theo dõi riêng biệt. Để phục vụ công tác quản lý Nhà nước của
bộ, ngành mình, đồng thời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân trong từng bộ,
ngành, lĩnh vực, các cơ quan quản lý Nhà nước đều cấp cho công dân một số loại
giấy tờ nên mỗi công dân có thể sở hữu nhiều loại giấy tờ khác nhau. Có cá nhân
đã thống kê hiện đang sở hữu 22 loại giấy tờ tùy thân khác nhau từ giấy khai
sinh, căn cước công dân, sổ hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn, thẻ bảo hiểm y tế, hộ
chiếu, giấy phép lái xe đến các loại thẻ, chứng chỉ liên quan khác.
Mỗi công dân, hiện nay, khi thực hiện thủ tục hành chính phải xuất
trình nhiều loại giấy tờ, trong đó có cả giấy tờ sao y, công chứng và phải đi rất
nhiều nơi để thực hiện thủ tục hành chính. Trong khi đó cơ quan Nhà nước gặp
nhiều khó khăn trong việc tra cứu thông tin để giải quyết yêu cầu của người
dân.
Cùng với việc cấp các giấy tờ cho công dân, việc nghiên cứu, xây dựng
các cơ sở dữ liệu mới chỉ tập trung vào mục tiêu quản lý Nhà nước của từng bộ,
ngành, lĩnh vực mà chưa đặt vấn đề kết nối, chia sẻ thông tin chung. Do đó,
không khắc phục được tình trạng cục bộ, chia cắt thông tin về công dân, không
thống nhất về thông tin cơ bản của một công dân trong các cơ sở dữ liệu. Từ việc
quản lý đơn lẻ dẫn tới gây lãng phí về kinh tế, nguồn nhân lực, khi thực hiện
thủ tục hành chính. Người dân phải mất thời gian đi sao y, chứng thực các giấy
tờ để chứng minh nhân thân, trong khi những loại giấy tờ liên quan đều chỉ sử dụng
chung những thông tin về công dân giống nhau.
Cùng với quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc ứng dụng khoa học
công nghệ trong các mặt công tác quản lý Nhà nước nói chung và công tác nghiệp
vụ của ngành Công an là xu hướng không thể đảo ngược. Muốn làm được điều này, cần
phải xây dựng và kết nối được hệ thống các cơ sở dữ liệu với nhau, trong đó cốt
lõi là Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Khi có hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mỗi người chỉ cần quản
lý một thẻ Căn cước công dân, thực hiện thủ tục hành chính đơn giản qua chính
thẻ Căn cước công dân đó tại cơ quan hành chính gần nhất và cán bộ thao tác tra
cứu, xác minh thông tin trên máy tính để có căn cứ đáp ứng yêu cầu của người
dân.
Như vậy, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất trên
toàn quốc để thu thập, cập nhật được thông tin cơ bản của công dân Việt Nam, nhằm
phục vụ quản lý Nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân, khắc phục
được các hạn chế, bất cập nêu trên là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây dựng thành công Chính phủ điện tử, hướng tới nền kinh tế số.
Ý nghĩa thực tiễn trong đời sống
Thông qua việc tổ chức thu thập, cập nhật các thông tin cơ bản của công
dân sẽ tạo lập nên một hệ cơ sở dữ liệu về dân cư tập trung, thống nhất trên
toàn quốc để dùng chung cho các bộ, ngành và chính quyền các cấp nhằm cung cấp
đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin về dân cư bao gồm số liệu, cơ cấu, phân bổ
và biến động dân cư... phục vụ công tác quản lý Nhà nước, hoạch định các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính là căn cứ quan trọng để các cơ
quan quản lý Nhà nước nghiên cứu, đề xuất lộ trình đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giảm giấy tờ công dân, khắc phục tình trạng một người dân phải sử dụng
quá nhiều giấy tờ cá nhân nhưng lại không đem lại hiệu quả trong công tác giải
quyết thủ tục hành chính.
Việc tra cứu thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, khi giải
quyết các thủ tục hành chính sẽ thay thế cho việc phải xuất trình, hoặc nộp bản
sao có chứng thực các giấy tờ công dân khi thực hiện thủ tục hành chính, rút ngắn
thời gian xử lý, giảm chi phí và thời gian đi lại của nhân dân, nâng cao chất
lượng phục vụ nhân dân.
Thông tin về dân cư được thu thập, cập nhật thường xuyên sẽ góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý dân cư, quản lý chắc biến động dân
cư, quản lý các loại đối tượng hỗ trợ công tác tra cứu, xác minh về nhân thân của
công dân, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cơ sở dữ liệu dân cư được xây dựng với mục tiêu kết nối, chia sẻ thông
tin về dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các ngành, lĩnh vực trên
toàn quốc, làm tăng khả năng khai thác, cập nhật thông tin về dân cư, hạn chế tối
đa sự trùng lặp thông tin, giảm chi phí ngân sách Nhà nước trong xây dựng cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin của các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Đồng thời, Cơ sở
dữ liệu về dân cư ra đời cũng sẽ góp phần làm giảm khối lượng hồ sơ giấy tờ
đang được lưu trữ quản lý tại cơ quan hành chính.
Đặc biệt, cơ sở dữ liệu dân cư còn có ý nghĩa, vai trò trong công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Bởi thông qua việc tổ chức thu thập, cập
nhật các thông tin cơ bản của công dân sẽ tạo lập nên một hệ cơ sở dữ liệu về
dân cư tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Từ hệ thống cơ sở dữ
liệu dân cư đó, sẽ giúp hỗ trợ công tác tra cứu, xác minh về nhân thân của công
dân, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, Cơ sở dữ liệu dân cư còn có ý nghĩa, vai trò trong việc hoạch định, phát triển kinh tế của Nhà nước. Từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các bộ, ngành có thể tra cứu các thông tin như di biến động về tình hình dân cư, số lượng người đến độ tuổi lao động tại các địa phương. Từ đó có thể bố trí, sắp xếp các khu kinh tế trọng điểm tại địa phương mình; số lượng trẻ dưới và trên 14 tuổi, để sắp xếp xây dựng các trường học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét