(TG)- Chỉ khi nào Mặt trận nắm vững tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc thì mới vượt qua được mọi trở lực, khó khăn, thách thức; mới phòng và chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch hiệu quả; mới khơi dậy được sức lực, trí tuệ, tiềm năng của toàn dân, cùng chung sức đón nhận thời cơ và thuận lợi, tạo nên những phong trào hành động cách mạng sinh động, phong phú trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
MẶT TRẬN VIỆT MINH - SỨC MẠNH HIỆU
TRIỆU KHỐI TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT
Nhân dân Việt Nam có truyền thống
yêu nước, có tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng và truyền thống ấy, tinh thần
ấy luôn được củng cố, đắp bồi trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Không phải ngẫu nhiên, trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ (1924), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại khẳng định rằng, ở Việt Nam, “chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[1] và thậm chí đó là “là động lực
vĩ đại và duy nhất”.
Ảnh minh họa |
Sau này, trong tác phẩm Đường
Cách mệnh (1927), chính Người cũng đã chỉ rõ: “Cách mệnh là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người”[2]. Vì thế, để làm tròn nhiệm vụ mà Tổ
quốc và nhân dân giao phó, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp
công nhân và dân tộc Việt Nam cần phải tập hợp, quy tụ, vận động và tổ chức các
tầng lớp nhân dân lại trong một tổ chức - một hình thức Mặt trận dân tộc thống
nhất, rộng rãi (Mặt trận) để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 28/1/1941, sau gần 30 hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8(5/1941), Người cùng Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ và chủ trương thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để mở rộng khối đoàn kết toàn dân tộc, tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc…
Trên tinh thần xác định rõ vị trí
chính trị của mình là nơi có hàng triệu dân chúng hăng hái tham gia; là nơi giải
quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa Đảng với một tổ chức quần chúng - nơi thực sự
quy tụ sức mạnh của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu nước nhằm nhân nguồn sức
mạnh nội lực của cả dân tộc trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do, Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh được thành lập ngày 19/5/1941(gọi tắt là Việt
Minh).
Mặt trận Việt Minh đã công bố
Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ; trong đó, Tuyên ngôn của Việt Minh nêu rõ:
“Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân
biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính
trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn”[3]. Vì thế, “đồng bào ta
hãy tìm các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh mà gia nhập cho mau. Các bạn trẻ
hãy thống nhất lại trong”Thanh niên cứu quốc đoàn”…Anh chị em thợ thuyền và dân
cày hãy vào “Công nhân cứu quốc hội” và “Nông dân cứu quốc hội”. Các bậc trí thức
văn nhân hãy đoàn kết thành “Văn hóa cứu quốc hội…”[4].
Chương trình cứu nước của Việt
Minh khẳng định: “Chủ trương liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể
cách mạng, các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, đặng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc,
làm cho nước Việt Nam và cả xứ Đông Dương được hoàn toàn độc lập”[5]. Đồng thời,
chính sách 44 điểm của Việt Minh về chính trị (9 điểm), kinh tế (11 điểm), xã hội
(6 điểm), văn hóa (7 điểm) và đối với các tầng lớp nhân dân (11 điểm) ra đời
chính là để “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam sung sướng, tự
do”[6].
Điều lệ của Việt Minh cũng nêu
rõ: “Tôn chỉ - liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái
cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật,
Pháp, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa”[7].
Đây là lần đầu tiên một Mặt trận
thống nhất dân tộc, có sức mạnh hiệu triệu, đánh thức tinh thần dân tộc của
toàn dân nhằm mục tiêu đánh Pháp, đuổi Nhật để dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được thành lập. Và từ những nội dung trong các văn kiện nêu trên, có thể thấy,
Việt Minh là bước phát triển cao hơn, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia hơn so với các hình thức mặt trận trước đó như: Hội Phản đế đồng
minh (18/11/1930); Hội Phản đế liên minh (3/1935); Mặt trận thống nhất nhân dân
phản đế (6/1936); Mặt trận dân chủ thống nhất (3/1938); Mặt trận thống nhất phản
đế Đông Dương (11/1939) và Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế (cuối năm 1940).
Đồng thời, với Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ của mình, Việt Minh cũng đã
khắc phục được tình trạng thiếu một bề sâu cần thiết, thiếu sự tham gia của nhiều
đảng phái trong nước... trong các hình thức Mặt trận này.
Để Mặt trận Việt Minh vừa làm
tròn nhiệm vụ của mình vừa là nơi quy tụ và nhân nguồn sức mạnh đoàn kết của cả
dân tộc, Đảng lãnh đạo Việt Minh theo 2 cách: 1) “Đưa chính sách cách mạng của
mình ra đề nghị với Việt Minh, lại có thể hăng hái tham gia trực tiếp chỉ huy
các cuộc đấu tranh của quần chúng trong Việt Minh”; 2) “Nhờ các đảng viên của Đảng
ta tham gia các đoàn thể cứu quốc như công, nông,phụ nữ, thanh niên mà có thể
đem chính sách của Đảng ta tuyên truyền phổ biến trong Việt Minh”[8].
Từ những tổ chức thí điểm của Mặt
trận Việt Minh đầu tiên ở Hà Quảng (Cao Bằng) năm 1941, Việt Minh phát triển
nhanh và lan rộng trong toàn quốc. Cùng với đó, các đoàn thể Hội Nông dân cứu
quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc…
cũng được thành lập và phát triển nhanh chóng trong các nhà máy, xí nghiệp, trường
học; ở khắp các tỉnh, thành phố…
Tư tưởng độc lập, tự do và chiến
lược đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo đã không chỉ hấp dẫn, quy tụ được các giai tầng trong xã hội mà
còn thu hút được cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Với Việt
Minh, không có sự phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, đảng phái… mà chỉ có
một khối toàn dân đoàn kết, thống nhất. Với Việt Minh, sức mạnh của lòng yêu nước,
khát khao độc lập, tự do, tinh thần dân tộc, đoàn kết muôn người như một được
khơi dậy mạnh mẽ, cùng chung sức góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng
lên cao, sôi nổi và đều khắp trong cả nước.
Với Việt Minh, ngày 14/8/1945,
khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, Tổng bộ Việt Minh hiệu triệu: “Giờ Tổng khởi
nghĩa đã đánh! Dân tộc ta đến lúc vùng dậy cướp lại quyền độc lập của mình! Trước
cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết
can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng quân Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi
giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân …Thắng lợi nhất định về
ta”[9].
Sức mạnh nội sinh từ khối toàn
dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945; đã “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây nên
nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập
nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[10] và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà -
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Cùng với thời gian, bài học về
tinh thần đoàn kết, nguyên tắc đoàn kết và việc tổ chức, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết của cả dân tộc; giữ vững nguyên tắc, không lơ là cảnh giác cách mạng,
nhưng chân thành, cởi mở trong hợp tác và liên kết; với các hình thức vận động,
tập hợp và quy tụ quần chúng phù hợp, hoạt động hiệu quả của Mặt trận Việt Minh
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng càng trở nên có ý nghĩa.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ VÀ
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
75 năm trôi qua kể từ thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bài học
về việc lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận); xây dựng và củng cố Mặt
trận để tập hợp, quy tụ, vận động và phát huy vai trò, sức mạnh của quần chúng
từ Mặt trận Việt Minh đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển
trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong mỗi thời kỳ, Mặt trận lại
có tên gọi cho phù hợp điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, song dù mang tên nào: Mặt
trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt) trong kháng chiến chống
Pháp; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Việt Nam (thành lập ở miền Nam) trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, thì Mặt trận cũng cần
phải và luôn phải bám sát nhiệm vụ chính trị, phối hợp với chính quyền và các tổ
chức thành viên; phải là nơi đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng
lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước; đồng thời,
tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc...
Để Mặt trận thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, chú trọng công tác xây
dựng, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận đối với việc thực hiện nhiệm vụ
cách mạng; trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là hạt nhân lãnh đạo - phải thực
hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn,
đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; đồng
thời, làm tốt công tác cán bộ, bồi dưỡng và giới thiệu những cán bộ, đảng viên
có phẩm chất đạo đức, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực
chuyên môn làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng Điều lệ.
Trong Mặt trận, Đảng phải là đạo
đức, là văn minh và là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất” để không chỉ giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng
mà còn phải chủ động phòng và chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng,
đòi chia quyền lãnh đạo trong Mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược
của cách mạng. Đồng thời, Đảng phải tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động
sáng tạo của Mặt trận; lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo
của Đảng và đối với cán bộ, đảng viên; phải chú trọng xây dựng và củng cố khối
liên minh công - nông - trí vững mạnh làm nền tảng của Mặt trận.
Thực tế cho thấy, sự quan tâm
lãnh đạo của các cấp uỷ, sự chủ động phối hợp, tạo điều kiện của chính quyền
các cấp để Mặt trận và các đoàn thể chính trị -xã hội hoạt động có hiệu quả là
rất quan trọng. Sự quan tâm lãnh đạo đầy đủ của mỗi cấp ủy đến việc đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, đoàn thể và quy chế phối hợp giữa
chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể trong các chương trình, dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội… của đất nước, địa phương và cơ sở sẽ góp phần để Mặt
trận hoạt động hiệu quả, phát huy được vị thế, vai trò của mình.
Thứ hai, vì “đoàn kết làm ra sức
mạnh”, “đoàn kết là thắng lợi”, cho nên trong Mặt trận, đoàn kết phải luôn là một
vấn đề chiến lược. “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… lấy
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng”[11]
và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là lợi ích cơ bản,
lâu dài, phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận nhân dân ta. Đó là cơ sở
khách quan của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống
nhất của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt
Nam đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ cần
phải phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân mà còn “đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát và phản biện xã hội, tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”[12].
Thứ ba, công tác Mặt trận là rất
quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một
trong những lực lượng to lớn của cách mạng và chính sách Mặt trận là rất quan
trọng đối với sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, nhân
dân Việt Nam, cho nên, phải “đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”[13]. Trong công tác Mặt trận,
phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân và phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo,
mọi nguồn lực của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở để nhân nguồn
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo đó, Mặt trận không chỉ phải
chú trọng chăm lo xây dựng và củng cố khối liên minh công - nông - trí làm nền
tảng; quan tâm để không bỏ sót ai, không coi nhẹ một ai, không để ai ở lại phía
sau nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn
phải khơi dậy khát vọng phát triển dân tộc, phát huy ý chí của tất cả mọi người
dân Việt Nam để phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc, góp phần
thực hiện thắng lợi Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm từ 2021 - 2030 như Dự thảo
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu [14].
Thứ tư, để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo nhu cầu, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân, cần nâng cao tính
tự giác và gắn bó của quần chúng với việc xây dựng tổ chức Mặt trận và các đoàn
thể vững mạnh; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua
yêu nước. Thực tế cho thấy, các hình thức tổ chức quần chúng, các phong trào
thi đua, các cuộc vận động cách mạng chỉ có sức sống khi quần chúng cần đến nó,
chứ không thể khiên cưỡng, áp đặt, bởi mọi sự sao chép cứng nhắc, dập khuôn máy
móc hay quan liêu đều không được lòng dân, không được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Theo đó, các phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Sản xuất,
kinh doanh giỏi”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí”…; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Xây dựng
gia đình 5 không, 3 sạch”… cũng cần phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Đồng thời, chú trọng xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội với hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với
đặc điểm từng đối tượng vận động.
Thứ năm, trong công tác Mặt trận,
cần coi trọng việc kết hợp và phát huy hiệu quả đội ngũ cán bộ chuyên trách,
bán chuyên trách và cộng tác viên; đồng thời, quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể có phẩm chất, năng lực và kỹ năng vận động
quần chúng, nhất là những người trưởng thành từ trong phong trào quần chúng.
Đó phải là những người luôn bám
sát địa bàn cơ sở, hiểu rõ cơ sở, nắm vững tâm tư, nguyện vọng và bức xức của mỗi
người dân, để tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo sự đồng tâm, đồng thuận cao
trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
90 năm xây dựng và phát triển dưới
sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói, dù được gọi với tên nào thì chỉ khi Mặt trận
thực sự là nơi tập hợp, động viên hết thảy mọi người dân tích cực tham gia vào
sự nghiệp cách mạng; được quy tụ, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động
chung; các giai tầng trong Mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh để phát huy cao nhất
vai trò của các thành viên tham gia vì mục tiêu chung thì Mặt trận mới phát huy
được vai trò và sức mạnh của mình./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
TS. Trần Thị Bình
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.511
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.283
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.461
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.462
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.466
[6]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.470
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.472
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.124
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.558
[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.3
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2016, tr.158
[12]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2016, tr.166
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2016, tr.170
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự
thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Lưu nội bộ