Thứ Ba, 24 tháng 11, 2020

Nhân nguồn sức mạnh của dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất

(TG)- Chỉ khi nào Mặt trận nắm vững tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc thì mới vượt qua được mọi trở lực, khó khăn, thách thức; mới phòng và chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch hiệu quả; mới khơi dậy được sức lực, trí tuệ, tiềm năng của toàn dân, cùng chung sức đón nhận thời cơ và thuận lợi, tạo nên những phong trào hành động cách mạng sinh động, phong phú trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

MẶT TRẬN VIỆT MINH - SỨC MẠNH HIỆU TRIỆU KHỐI TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT

Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng và truyền thống ấy, tinh thần ấy luôn được củng cố, đắp bồi trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Không phải ngẫu nhiên, trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (1924), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại khẳng định rằng, ở Việt Nam, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[1] và thậm chí đó là “là động lực vĩ đại và duy nhất”.

Ảnh minh họa


Sau này, trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), chính Người cũng đã chỉ rõ: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”[2]. Vì thế, để làm tròn nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam cần phải tập hợp, quy tụ, vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân lại trong một tổ chức - một hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất, rộng rãi (Mặt trận) để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 28/1/1941, sau gần 30 hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8(5/1941), Người cùng Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ và chủ trương thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để mở rộng khối đoàn kết toàn dân tộc, tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc…

Trên tinh thần xác định rõ vị trí chính trị của mình là nơi có hàng triệu dân chúng hăng hái tham gia; là nơi giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa Đảng với một tổ chức quần chúng - nơi thực sự quy tụ sức mạnh của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu nước nhằm nhân nguồn sức mạnh nội lực của cả dân tộc trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh được thành lập ngày 19/5/1941(gọi tắt là Việt Minh).

Mặt trận Việt Minh đã công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ; trong đó, Tuyên ngôn của Việt Minh nêu rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn”[3]. Vì thế, “đồng bào ta hãy tìm các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh mà gia nhập cho mau. Các bạn trẻ hãy thống nhất lại trong”Thanh niên cứu quốc đoàn”…Anh chị em thợ thuyền và dân cày hãy vào “Công nhân cứu quốc hội” và “Nông dân cứu quốc hội”. Các bậc trí thức văn nhân hãy đoàn kết thành “Văn hóa cứu quốc hội…”[4].

Chương trình cứu nước của Việt Minh khẳng định: “Chủ trương liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, đặng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, làm cho nước Việt Nam và cả xứ Đông Dương được hoàn toàn độc lập”[5]. Đồng thời, chính sách 44 điểm của Việt Minh về chính trị (9 điểm), kinh tế (11 điểm), xã hội (6 điểm), văn hóa (7 điểm) và đối với các tầng lớp nhân dân (11 điểm) ra đời chính là để “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam sung sướng, tự do”[6].

Điều lệ của Việt Minh cũng nêu rõ: “Tôn chỉ - liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[7].

Đây là lần đầu tiên một Mặt trận thống nhất dân tộc, có sức mạnh hiệu triệu, đánh thức tinh thần dân tộc của toàn dân nhằm mục tiêu đánh Pháp, đuổi Nhật để dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Và từ những nội dung trong các văn kiện nêu trên, có thể thấy, Việt Minh là bước phát triển cao hơn, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia hơn so với các hình thức mặt trận trước đó như: Hội Phản đế đồng minh (18/11/1930); Hội Phản đế liên minh (3/1935); Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (6/1936); Mặt trận dân chủ thống nhất (3/1938); Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương (11/1939) và Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế (cuối năm 1940). Đồng thời, với Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ của mình, Việt Minh cũng đã khắc phục được tình trạng thiếu một bề sâu cần thiết, thiếu sự tham gia của nhiều đảng phái trong nước... trong các hình thức Mặt trận này.

Để Mặt trận Việt Minh vừa làm tròn nhiệm vụ của mình vừa là nơi quy tụ và nhân nguồn sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo Việt Minh theo 2 cách: 1) “Đưa chính sách cách mạng của mình ra đề nghị với Việt Minh, lại có thể hăng hái tham gia trực tiếp chỉ huy các cuộc đấu tranh của quần chúng trong Việt Minh”; 2) “Nhờ các đảng viên của Đảng ta tham gia các đoàn thể cứu quốc như công, nông,phụ nữ, thanh niên mà có thể đem chính sách của Đảng ta tuyên truyền phổ biến trong Việt Minh”[8].

Từ những tổ chức thí điểm của Mặt trận Việt Minh đầu tiên ở Hà Quảng (Cao Bằng) năm 1941, Việt Minh phát triển nhanh và lan rộng trong toàn quốc. Cùng với đó, các đoàn thể Hội Nông dân cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc… cũng được thành lập và phát triển nhanh chóng trong các nhà máy, xí nghiệp, trường học; ở khắp các tỉnh, thành phố… 

Tư tưởng độc lập, tự do và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã không chỉ hấp dẫn, quy tụ được các giai tầng trong xã hội mà còn thu hút được cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Với Việt Minh, không có sự phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, đảng phái… mà chỉ có một khối toàn dân đoàn kết, thống nhất. Với Việt Minh, sức mạnh của lòng yêu nước, khát khao độc lập, tự do, tinh thần dân tộc, đoàn kết muôn người như một được khơi dậy mạnh mẽ, cùng chung sức góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng lên cao, sôi nổi và đều khắp trong cả nước. 

Với Việt Minh, ngày 14/8/1945, khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, Tổng bộ Việt Minh hiệu triệu: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Dân tộc ta đến lúc vùng dậy cướp lại quyền độc lập của mình! Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng quân Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân …Thắng lợi nhất định về ta”[9].

Sức mạnh nội sinh từ khối toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đã “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[10] và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cùng với thời gian, bài học về tinh thần đoàn kết, nguyên tắc đoàn kết và việc tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc; giữ vững nguyên tắc, không lơ là cảnh giác cách mạng, nhưng chân thành, cởi mở trong hợp tác và liên kết; với các hình thức vận động, tập hợp và quy tụ quần chúng phù hợp, hoạt động hiệu quả của Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng càng trở nên có ý nghĩa.

TIẾP TỤC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

75 năm trôi qua kể từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945,  bài học về việc lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận); xây dựng và củng cố Mặt trận để tập hợp, quy tụ, vận động và phát huy vai trò, sức mạnh của quần chúng từ Mặt trận Việt Minh đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong mỗi thời kỳ, Mặt trận lại có tên gọi cho phù hợp điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, song dù mang tên nào: Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt) trong kháng chiến chống Pháp; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Việt Nam (thành lập ở miền Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, thì Mặt trận cũng cần phải và luôn phải bám sát nhiệm vụ chính trị, phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên; phải là nơi đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước; đồng thời, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc...

Để Mặt trận thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, chú trọng công tác xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận đối với việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng; trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là hạt nhân lãnh đạo - phải thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; đồng thời, làm tốt công tác cán bộ, bồi dưỡng và giới thiệu những cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực chuyên môn làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng Điều lệ.

Trong Mặt trận, Đảng phải là đạo đức, là văn minh và là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất” để không chỉ giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng mà còn phải chủ động phòng và chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong Mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Đồng thời, Đảng phải tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận; lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ, đảng viên; phải chú trọng xây dựng và củng cố khối liên minh công - nông - trí vững mạnh làm nền tảng của Mặt trận.

Thực tế cho thấy, sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ, sự chủ động phối hợp, tạo điều kiện của chính quyền các cấp để Mặt trận và các đoàn thể chính trị -xã hội hoạt động có hiệu quả là rất quan trọng. Sự quan tâm lãnh đạo đầy đủ của mỗi cấp ủy đến việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, đoàn thể và quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… của đất nước, địa phương và cơ sở sẽ góp phần để Mặt trận hoạt động hiệu quả, phát huy được vị thế, vai trò của mình.

Thứ hai, vì “đoàn kết làm ra sức mạnh”, “đoàn kết là thắng lợi”, cho nên trong Mặt trận, đoàn kết phải luôn là một vấn đề chiến lược. “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng”[11] và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là lợi ích cơ bản, lâu dài, phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận nhân dân ta. Đó là cơ sở khách quan của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ cần phải phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà còn “đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[12].

Thứ ba, công tác Mặt trận là rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng và chính sách Mặt trận là rất quan trọng đối với sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam, cho nên, phải “đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”[13]. Trong công tác Mặt trận, phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân và phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo, mọi nguồn lực của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo đó, Mặt trận không chỉ phải chú trọng chăm lo xây dựng và củng cố khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng; quan tâm để không bỏ sót ai, không coi nhẹ một ai, không để ai ở lại phía sau nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn phải khơi dậy khát vọng phát triển dân tộc, phát huy ý chí của tất cả mọi người dân Việt Nam để phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm từ 2021 - 2030 như Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu [14].

Thứ tư, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo nhu cầu, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân, cần nâng cao tính tự giác và gắn bó của quần chúng với việc xây dựng tổ chức Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước. Thực tế cho thấy, các hình thức tổ chức quần chúng, các phong trào thi đua, các cuộc vận động cách mạng chỉ có sức sống khi quần chúng cần đến nó, chứ không thể khiên cưỡng, áp đặt, bởi mọi sự sao chép cứng nhắc, dập khuôn máy móc hay quan liêu đều không được lòng dân, không được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Theo đó, các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Sản xuất, kinh doanh giỏi”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”…; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”… cũng cần phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, chú trọng xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng vận động.

Thứ năm, trong công tác Mặt trận, cần coi trọng việc kết hợp và phát huy hiệu quả đội ngũ cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và cộng tác viên; đồng thời, quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể có phẩm chất, năng lực và kỹ năng vận động quần chúng, nhất là những người trưởng thành từ trong phong trào quần chúng.

Đó phải là những người luôn bám sát địa bàn cơ sở, hiểu rõ cơ sở, nắm vững tâm tư, nguyện vọng và bức xức của mỗi người dân, để tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo sự đồng tâm, đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

90 năm xây dựng và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói, dù được gọi với tên nào thì chỉ khi Mặt trận thực sự là nơi tập hợp, động viên hết thảy mọi người dân tích cực tham gia vào sự nghiệp cách mạng; được quy tụ, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung; các giai tầng trong Mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh để phát huy cao nhất vai trò của các thành viên tham gia vì mục tiêu chung thì Mặt trận mới phát huy được vai trò và sức mạnh của mình./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

TS. Trần Thị Bình

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.511

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.283

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.461

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.462

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.466

[6]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.470

[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.472

[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.124

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.558

[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia –Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.3

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.158

[12]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.166

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.170

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Lưu nội bộ

Người dân có cuộc sống bình yên là niềm vui lớn nhất

Gần 20 năm là Công an viên, đến lúc nghỉ công tác về địa phương, anh Trần Hoàng Vũ (ngụ ấp Trường Thọ 2, xã Trường Long, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ) vẫn tích cực tham gia công tác đảm bảo an ninh trật tự (ANTT) và các phong trào ở địa phương. Với anh Vũ, bà con có cuộc sống bình yên, phát triển là niềm vui lớn nhất của anh.

“Mình làm Công an phải làm sao để người dân tin tưởng, phải nhiệt tình cống hiến thì dân mới ủng hộ, giúp đỡ mình hoàn thành nhiệm vụ”, anh Vũ chia sẻ. Với suy nghĩ đó mà ngay từ lúc mới tham gia Công an xã, anh Vũ đã nỗ lực phấn đấu không ngừng nghỉ.

Anh Trần Hoàng Vũ


Năm 2000, khi tham gia Công an xã, anh Trần Hoàng Vũ khi ấy mong ước góp công sức nhỏ bé của mình để giữ gìn, xây dựng quê hương, xóm ấp được yên vui; ANTT được đảm bảo để người dân an tâm làm ăn, phát triển kinh tế, thoát nghèo.

Biến ước mơ thành hiện thực, anh Vũ không ngừng trau dồi học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật và nghiệp vụ ngành; công tác nắm quản lý địa bàn, phòng ngừa, cảm hóa giáo dục đối tượng chậm tiến; biện pháp phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Thời gian ngắn sau khi tham gia Công an xã, anh Vũ được bổ nhiệm Trưởng Công an ấp Trường Thọ 2, trở thành Công an viên xã Trường Long, phụ trách ANTT ấp Trường Thọ 2. Thời gian trước, cũng như các địa phương khác, địa bàn do anh Vũ quản lý có ANTT phức tạp, như: trộm cắp vặt; đá gà ăn tiền; thanh niên nhậu nhẹt, tụ tập đêm khuya; những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân có thể ảnh hưởng đến tình làng nghĩa xóm…

Để giữ ổn định, anh cùng với ban ngành đoàn thể địa phương củng cố các mô hình phòng chống tội, như: Cổng rào an ninh; Tổ tuần tra đảm bảo ANTT; Tổ hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân. Một trong những biện pháp được anh Vũ tập trung thực hiện là tuyên truyền, vận động người dân.

Bởi theo anh, nếu làm tốt công tác này thì người dân hiểu, đồng tình và cùng tham gia thực hiện, nhất là việc nâng cao ý thức trong thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước; tự giác chấp hành pháp luật; tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nói không với tội phạm và tệ nạn xã hội ở vùng nông thôn

Anh Vũ, chia sẻ: “Đối với lực lượng Công an, công tác phòng ngừa là chính, để phòng tốt thì phải gần dân, sát dân, bám địa bàn, kịp thời giải quyết nhanh các vụ việc có liên quan đến ANTT, giữ bình yên xóm ấp”.

Nhiều năm làm Công an phụ trách cơ sở đã cho anh Vũ những kinh nghiệm quý trong thực hiện nhiệm vụ. Trong đó, những mâu thuẫn xích trong nội bộ nhân dân phải được giải quyết kịp thời, ngay từ đầu. Biết là vậy, nhưng khi gặp chuyện để hòa giải thành không hề đơn giản. Bởi người hòa giải phải có uy tín, nhận được sự tin tưởng và phải có kiến thức…

Có như vậy mới giải quyết vụ việc một cách hợp lý, hợp tình. Cụ thể, chỉ vì mâu thuẫn lối đi mà giữa bà Nguyễn Thị Mịnh (ngụ ấp Trường Thọ) với người hàng xóm xích mích, cự cãi thậm chí không nhìn mặt nhau. Nắm được sự việc, anh Vũ mời hai bên hòa giải. Xuất phát từ tình làng nghĩa xóm, “tối lửa tắt đèn có nhau”, anh Vũ phân tích rõ đúng, sai, người có lỗi thì nhận, giữ tình chòm xóm nên hai bên bỏ qua cho nhau.

Không chỉ làm tốt công tác bảo đảm ANTT, anh Vũ còn tích cực tham gia phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương… Con đường liên ấp Trường Thọ 2 trước đây nước ngập, sình lầy, đi lại rất khó khăn, nhất là với các em học sinh. 

Với phương châm “Nhà nước và nhân dân” cùng làm, anh Vũ mạnh dạn đề xuất, xin chủ trương được cấp trên chấp thuận, vận động bà con quyên góp xây dựng tuyến đường dài 800m với tổng kinh phí hơn 100 triệu.

Anh Trần Hoàng Vũ (thứ 2 từ trái qua), thường xuyên trao đổi với Công an xã về tình hình ANTT địa phương.


Bà Trần Thị Năm (ngụ ấp Trường Thọ 2) nói: “Việc gì làm tốt cho dân thì dân ủng hộ ngay, cháu Vũ đến vận động tôi quyên góp 4 triệu đồng để làm đường. Tôi thấy đường tốt, không lầy lội đi lại dễ dàng thì con cháu mình hưởng chứ ai vào đây”.

Nhiều năm liền không xảy ra trọng án, không tệ nạn xã hội, ấp Trường Thọ 2 được công nhận “3 không” (không tội phạm, không ma túy, không mại dâm). Đời sống người dân không ngừng được nâng lên, hiện trên 98% hộ gia đình ở ấp đạt “Gia đình văn hóa”. Kết quả này có sự đóng góp không nhỏ của anh Trần Hoàng Vũ, một Công an viên trách nhiệm, năng nổ được người dân trong ấp quý mến.

Ghi nhận sự đóng góp của anh Trần Hoàng Vũ, Bộ Công an vừa tặng Kỷ niệm chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc. Ngoài ra, anh Vũ còn được UBND huyện Phong Điền, UBND xã Trường Long nhiều lần khen thưởng bằng các hình thức…

Nguồn: Văn Đức - P.Tại Báo CAND

Nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế và Việt Nam

 

Thời gian qua, một số tổ chức và cá nhân luôn tìm cách sử dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Luận điệu mà họ đưa ra là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân; đòi tách tôn giáo khỏi sự quản lý của Nhà nước, yêu cầu chính quyền không kiểm soát...

Thời gian qua, một số tổ chức và cá nhân luôn tìm cách sử dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Luận điệu mà họ đưa ra là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân; đòi tách tôn giáo khỏi sự quản lý của Nhà nước, yêu cầu chính quyền không kiểm soát, kiểm duyệt các tôn giáo, cho phép tôn giáo được tự do hoạt động.

Ảnh minh họa


Họ nêu ra các vấn đề rằng, “nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về tôn giáo, dân tộc không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Thậm chí, họ còn trắng trợn phê phán, xuyên tạc “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”.

Đồng thời họ còn cho rằng, Việt Nam đề ra chính sách pháp luật nhưng không thực hiện. Trong các Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế hàng năm do Cục Dân chủ, nhân quyền và lao động, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố đều nêu nội dung: “Hiến pháp Việt Nam quy định quyền tự do tôn giáo, tuy nhiên Chính phủ vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn giáo”. Trong các báo cáo này còn nêu ra “các biện pháp hạn chế tự do tôn giáo”, “các trường hợp lạm dụng tự do tôn giáo…, một số tín đồ tôn giáo tiếp tục bị đàn áp hoặc sách nhiễu…”.

Các đối tượng còn tuyên truyền, chỉ trích, vu cáo “chính quyền Việt Nam cấm đoán nhiều tổ chức, hệ phái tôn giáo hoạt động” và “kiểm soát chặt chẽ” hoạt động của các tổ chức tôn giáo đã được Chính phủ công nhận, “cấm mục sư Tin lành đi lại truyền đạo, cấm con em những người theo đạo đến trường”, yêu cầu chính quyền “chấm dứt sự phủ quyết đối với việc bổ nhiệm các giám mục Công giáo” (thực tế, Vatican đã thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam về việc bổ nhiệm giám mục ở Việt Nam phải được Nhà nước Việt Nam chấp thuận).

Trong vấn đề đào tạo chức sắc tôn giáo, các đối tượng vu cáo “chính quyền hạn chế một cách “độc đoán” về số lượng sinh viên được phép đào tạo thành linh mục”.

Một số tổ chức, cá nhân trên các danh nghĩa khác nhau đã gặp gỡ, tiếp xúc số chức sắc, tín đồ có tư tưởng cực đoan, quá khích trong các tôn giáo như: Thích Không Tánh (Phật giáo), Nguyễn Văn Lý (Công giáo), Nguyễn Hồng Quang (Tin lành), Hứa Phi (Cao Đài),... để hậu thuẫn, kích động, hỗ trợ cho số này tiến hành hoạt động vi phạm pháp luật.

Khi những đối tượng này có hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý (bắt, giam giữ, truy tố, tù giam), họ thường có phản ứng quyết liệt để bênh vực, bảo vệ họ như: Phản đối, lên án ta đàn áp tôn giáo, yêu cầu ta phải trả tự do cho những người mà họ gọi là “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân lương tâm”.

Quản lý Nhà nước về tôn giáo là yêu cầu khách quan

Thực tế cho thấy, không thể có quyền tự do tôn giáo tuyệt đối. Xét về bản chất, tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người tin theo một đối tượng tôn thờ, được sắp xếp theo cơ cấu nhất định. Mọi tổ chức tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Do vậy, các tôn giáo phải chịu sự quản lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp luật để tiến hành quản lý nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia trên thế giới

Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ quyền và tự do cơ bản của người khác”.

Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động tôn giáo cũng phải tuân thủ luật pháp như: Điều 26, Luật của Cộng hòa Pháp về tách Giáo hội khỏi Nhà nước quy định: “Việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chính quyền có chức năng gìn giữ trật tự công cộng. Ở những nơi chuyên vào việc thờ tự và thực hành nghi lễ tôn giáo cấm việc hội họp có tính chất chính trị”. Điều 27 quy định: “Các nghi lễ, các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu vực nhà thờ và việc kéo chuông phải tuân theo những quy định của chính quyền tỉnh, thành phố”.

Luật pháp Cộng hòa Bỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với những giáo sĩ có hành vi và lời nói xúc phạm tới Chính phủ, luật pháp, sắc lệnh của nhà vua cũng như đối với các hoạt động của chính quyền.

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, giáo sĩ cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự như công dân khác trong trường hợp vi phạm hiến pháp, pháp luật. Cũng ở Đức, các giám mục Thiên chúa giáo khi nhậm chức phải tuyên thệ: “Tôi xin thề và hứa sẽ tôn trọng Chính phủ hợp hiến. Chiểu theo nghĩa vụ phải quan tâm tới lợi ích của Nhà nước Đức trước bất kỳ sự gì khả dĩ tác hại tới lợi ích đó”.

Ở Mỹ, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được quản lý theo luật pháp của các bang. Luật của các bang quy định về hoạt động tôn giáo có những điểm khác nhau về chi tiết, song nhìn chung đều dựa trên yêu cầu thống nhất trong toàn liên bang như: Việc đăng ký thủ tục bắt buộc đối với các tổ chức tôn giáo trong toàn liên bang, lệ phí phải nộp cho chính quyền về việc đăng ký là 15 đô la; các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của bang. Chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân.

Ở Nhật Bản, Luật về các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân quy định rõ: Các cấp chính quyền quản lý các tổ chức tôn giáo là Bộ Văn hóa, tỉnh, huyện. Các tổ chức tôn giáo đều phải đăng ký ở Bộ Văn hóa và chỉ sau khi đã được đăng ký mới được hoạt động tại nơi đặt văn phòng của tổ chức đó.

Tôn trọng tôn giáo, tín ngưỡng và bảo đảm trên thực tế

Tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân được đảm bảo. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, trong đó đều khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”; “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”...

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016, Nghị định số 162/NĐ-CP ngày 31/12/2017 về biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng tôn giáo... Trong các văn bản pháp luật này đều khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng đa dạng, được Đảng, Nhà nước bảo đảm hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Cùng với sự mở cửa, phát triển của đất nước, tôn giáo ở Việt Nam có sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ, đa dạng hơn. Năm 1990, Việt Nam có 6 tôn giáo, 3 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, cùng với một số loại hình tín ngưỡng dân gian gắn với các dân tộc.

Từ năm 2003, thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo với khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến năm 2020, đã có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, khoảng 26,5 triệu tín đồ, sinh hoạt tôn giáo ở 29.660 cơ sở thờ tự.

Về chức sắc, năm 1990, nước ta có khoảng 38 nghìn chức sắc, nhà tu hành, đến nay tăng lên 61,2 nghìn chức sắc, 147,1 nghìn chức việc (tổng số chức sắc, chức việc khoảng 208,3 nghìn), trong đó tăng nhanh và nhiều nhất là chức sắc Phật giáo và đạo Tin lành.

Trước năm 2003, trung bình hằng năm có khoảng 7 nghìn lượt người tốt nghiệp hoặc hoàn thành các khóa đào tạo chức sắc do các tôn giáo tổ chức, nhưng từ 2003 đến năm 2018, trung bình hằng năm có khoảng 15 nghìn lượt người (tăng 215%).

Với 56 cơ sở đào tạo của các tôn giáo hiện có (gấp 3 lần so với năm 1990), cùng với nhiều hình thức đào tạo đa dạng, linh hoạt, tăng cường các hình thức đào tạo ngắn hạn, cả ở trong nước và ở nước ngoài (đối với các tôn giáo ngoại nhập, có quan hệ quốc tế như Công giáo, đạo Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo) nên hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được đào tạo bài bản, nâng cao trình độ và uy tín, vai trò, ảnh hưởng đối với quần chúng tín đồ, không chỉ trong đời sống tinh thần mà cả trong đời sống xã hội.

Lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền là hoạt động xuyên suốt của những tổ chức, cá nhân và quốc gia thiếu thiện chí với Việt Nam. Trong khi thực tiễn là Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

Nguồn: Quang Lê - Báo CAND

Càng đến gần Đại hội XIII của Đảng càng phải chủ động phòng và chống các thông tin sai trái, thù địch

 (TG)- Việc nhận diện đúng những luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực cơ hội, phản động để mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân một mặt nâng cao cảnh giác trước các thông tin xấu, độc; mặt khác, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng cách mạng, tin tưởng vào Đảng, vào sự phát triển phồn vinh của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIII của Đảng là hết sức quan trọng và cần thiết.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị trọng đại, có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển vững bền của đất nước nên thu hút sự quan tâm, kỳ vọng, niềm tin của cả hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng phát biểu kết luận cuộc họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. (Ảnh: TTXVN)


Càng đến gần Đại hội, sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt này càng là dịp mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội thi nhau lợi dụng, tăng cường các hoạt động vu khống, xuyên tạc, bịa đặt, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam trên mạng xã hội. Trong đó, loạt các bài viết, trả lời phỏng vấn của Phạm Trần, Trần Quốc Việt, Nguyễn Dân, Đào Tăng Dực, Nguyễn Văn Đài, Song Chi, Bùi Thanh Hiếu… trên Tiengdan, Danlambao, Chantroimoi. Media, Việt Tân, Youtube, BBC, RFI… không chỉ thể hiện rõ âm mưu chống Đảng Cộng sản Việt Nam, bôi nhọ và xuyên tạc sự thật mà còn nhằm mục đích lôi kéo, mua chuộc những người nhẹ dạ cả tin và chia rẽ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm suy yếu Đảng.

NHỮNG LUẬN ĐIỆU CŨ RÍCH

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng

Dưới "nhãn quan" của các nhà dân chủ "miệng", nhân danh dân chủ thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam là không thể chấp nhận được; cần phải xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với đó, việc Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam lựa chọn con đường cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) là những sai lầm cần phải thay đổi; là căn nguyên của một đất nước Việt Nam kém phát triển về kinh tế, thiếu tự do, dân chủ và nhân dân Việt Nam mãi nghèo, đất nước Việt Nam không biết bao giờ mới đi qua được thời kỳ quá độ chứ đừng nói là chủ nghĩa xã hội…

Theo họ, đất nước Việt Nam chỉ phát triển và nhân dân Việt Nam chỉ được tự do, hạnh phúc khi đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, khi thực hiện đa nguyên, đa đảng, xây dựng xã hội dân sự, v.v.. mà không hề hiểu rằng cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước chỉ chấm dứt khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930. Trong đau thương, chìm nổi của thân phận nô lệ, sống mà không được thụ hưởng một quyền con người nào, mỗi người dân Việt Nam đã nhận thức rõ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử, đáp ứng yêu cầu nội tại của đất nước và phù hợp xu thế của thời đại.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn con đường đi của dân tộc: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[1], mà cụ thể là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập" và "thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo"[2]… chính là bước ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại nói riêng, nên nhân dân đã tin tưởng và đồng lòng đi theo Đảng.

Thực tế thì, Việt Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”[3].

Cho nên mới nói, trong khi bôi nhọ, chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng; đồng thời, kêu gào phải thực hiện xã hội dân sự, phải để người dân được thực hiện quyền này, quyền nọ, những người "yêu nước bằng bàn phím" hoặc là không hiểu, hoặc là cố tình không hiểu rằng: Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đất nước chìm đắm trong đêm trường nô lệ, người dân sống trên dải đất hình chữ S này không còn được như "con sâu, cái kiến"… Không có Đảng lãnh đạo, lấy đâu tên đất nước Việt Nam được trả lại trên bản đồ chính trị thế giới; và cũng đâu có những người dân Việt Nam được thụ hưởng ngày càng đầy đủ hơn quyền con người, quyền công dân được chế định trong các Hiến pháp từ 1946 đến 2013!

Sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của toàn thể nhân dân Việt Nam từ năm 1930 cho thấy, ngọn cờ độc lập, tự do gắn liền chủ nghĩa xã hội mà Đảng giương cao đã đáp ứng khát vọng của toàn thể dân tộc; đồng thời cũng cho thấy một sự thật là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được một cuộc đổi đời chưa từng thấy trong lịch sử. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, không còn thân phận nô lệ, cũng chẳng còn là thần dân, mỗi người dân Việt Nam từ sau ngày 2/9/1945 cho đến hôm nay và mãi mãi về sau đã, đang và sẽ luôn là người chủ/làm chủ cuộc đời mình, làm chủ vận mệnh đất nước mình, nên không cần đa nguyên, đa đảng đối lập!.

Phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Không chỉ chống Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, nhóm những người "nhân danh dân chủ" này còn thường mượn cớ, nhân một sự kiện chính trị nào đó để bôi nhọ Đảng, nói xấu những người cộng sản Việt Nam và luôn rêu rao rằng, Đảng không cần phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Theo họ, chỉ khi nào Đảng không lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng thì Đảng mới theo kịp con đường tư bản chủ nghĩa mà thế giới đang đi và nhân dân Việt Nam mới được tự do, dân chủ như ở phương Tây... Cùng với đó, họ đổ lỗi cho những hạn chế đang tồn tại là do Đảng độc quyền lãnh đạo; Đảng không phải là một khối đoàn kết, thống nhất mà bao gồm những cá nhân "ăn trên ngồi trốc", gồm những nhóm lợi ích, mưu lợi ích cho cá nhân và phe cánh; cán bộ, đảng viên không phải là những người vì nước, vì dân phục vụ mà là cha mẹ dân…

Tung ra những luận điệu vu khống như vậy, những người chống Đảng Cộng sản Việt Nam không hề nhận thức được rằng, ngay từ khi mới ra đời, Luận cương chính trị năm 1930 Đảng đã xác định rõ: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”[4]. Xuất phát từ điều kiện khách quan của lịch sử, việc thành lập một chính đảng Mácxit kiểu mới ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ngay từ khi mới ra đời không chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, không phải chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà cao hơn nữa chính là vì lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.

Tiếp đó, cùng với thời gian, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi"[5] và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và dân tộc ta.

Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và sau đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[6].

Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: "Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[7]. Những thành tựu Việt Nam đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ Đảng nắm vững, kiên định và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật của thời đại. Đồng thời, xuyên suốt hành trình đầy gian khó song rất đỗi tự hào đó, ngoại trừ một bộ phận suy thoái, còn đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nỗ lực hết mình để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.

Xuyên tạc cuộc đấu tranh chống tham nhũng

Khoét sâu vào sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", nhất là tình trạng tham ô, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà căn nguyên sâu sa là do mang nặng chủ nghĩa cá nhân, các "anh hùng bàn phím" quy kết rằng những khuyết tật suy thoái đó là bản chất của chế độ Đảng độc quyền lãnh đạo để thông qua đó bôi nhọ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng, thực hiện xã hội dân sự…

Thật ra, tham nhũng luôn là tệ nạn đối với mọi quốc gia, dân tộc, dù quốc gia đó theo chế độ đa đảng hay một đảng độc quyền lãnh đạo như Việt Nam. Ở Việt Nam, sớm nhận thức được tác hại của tham nhũng đối với việc xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi tham ô, tham nhũng là “giặc nội xâm” và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cuộc đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng để chú trọng phòng và đấu tranh chống lại tệ nạn nguy hiểm này.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đấu tranh chống tham nhũng được Đảng xác định là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì và thận trọng, không nóng vội, không chủ quan... Những nhiệm kỳ gần đây, việc đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng trong Đảng và hệ thống chính trị thể hiện rõ qua văn kiện Đại hội Đảng, qua các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng, về phòng và đấu tranh chống tham nhũng... Theo đó, các cơ quan, ban, ngành chức năng đã thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, trong đó lấy giáo dục làm cơ sở, lấy pháp chế làm đảm bảo, trên tinh thần: 1) Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc; 2) Không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, không chịu sự tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào; 3) Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó, trong đó lấy phòng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách; 4) Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội… để từng bước ngăn chặn, kiềm chế, đẩy lùi tham nhũng.

Trong phòng và chống tham nhũng, việc đưa ra xét xử nhiều vụ án về tham nhũng kinh tế; việc khởi tố, xử lý, kỷ luật cán bộ, đảng viên; trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao, cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý… nhất là nhiệm kỳ XII cho thấy, chủ trương và hành động quyết liệt của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. Những kết quả trong phòng và đấu tranh chống tham nhũng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII (2016) của Đảng đến những ngày tháng 10 năm 2020 được đăng tải trên các cơ quan truyền thông không chỉ khẳng định quyết tâm kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống chính trị mà còn góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng được trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền phong.

Bịa đặt về công tác nhân sự của Đảng

Một trong những vấn đề quan trọng mà các thế lực thù địch thường sử dụng để chống phá Đảng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa chính là bôi nhọ, xuyên tạc công tác cán bộ và công tác nhân sự của Đảng. Đặc biệt, khi Đại hội XIII của Đảng đến gần, mỗi khi có thông báo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về xử lý kỷ luật các cá nhân hay tập thể vi phạm… là thêm một lần trên mạng xã hội lại đầy các thông tin nhiễu loạn, xuyên tạc. Vin cớ đó, họ quy kết rằng: Làm gì có cán bộ, đảng viên hết lòng vì nước, vì dân; xử lý kỷ luật chính là cuộc tranh giành quyền lực giữa các "phe cánh" trong Đảng; cuộc thanh trừng nội bộ nhằm chia nhau quyền lực của Đại hội XIII đến hồi gay cấn; thậm chí Đại hội chỉ là hình thức…

Thực tế thì, xuyên suốt các nhiệm kỳ của Đảng, nhận thức sâu sắc rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[8] và “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý nhất định”[9], Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác cán bộ. Nhất là, công tác cán bộ và nhân sự cho Đại hội XIII đã, đang và sẽ được tiến hành đồng bộ, chặt chẽ, công khai, minh bạch, nghiêm túc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các quy định về nêu gương… Do đó, việc đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, nhất là tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội… đã từng bước được ngăn chặn.

Bên cạnh đó, việc thực hiện nghiêm tiêu chuẩn cán bộ như Quy định số 89-QĐ/TW, Quy định số 90-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…đã cho thấy công tác cán bộ nói chung, công tác nhân sự của Đại hội XIII nói riêng được tiến hành cẩn trọng, khách quan, minh bạch, đúng lộ trình.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013). Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng là những người đã trải qua thử thách, rèn luyện và luôn phấn đấu để hoàn thành trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Chỉ những người đủ tiêu chuẩn về đức và tài, được tín nhiệm mới được bầu, được trao trọng trách đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý trong Đảng và trong hệ thống chính trị. Đó là những người không chỉ nói đi đôi với làm, gương mẫu và tận tâm, tận lực phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân mà còn phải luôn phòng và đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…

Đảng Cộng sản Việt Nam thực thi quyền lực chính trị của mình bằng cách lãnh đạo Nhà nước, thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để hiện thực hóa quyền, lợi ích, ý chí của nhân dân mà Đảng là đại diện và được ủy quyền; luôn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới… cho nên, có thể khẳng định rằng, những thông tin sai lệch về Đảng; về công tác phòng và đấu tranh chống tham nhũng; sự bịa đặt, quy chụp công tác cán bộ, nhất là nhân sự các cấp và cho Đại hội XIII là sự kích động, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, phủ nhận những nỗ lực trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất kỳ thời điểm nào, thì những thông tin xấu, độc, nhiễu loạn như trên cũng cần phải được nhận diện đúng và kịp thời, để mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nâng cao cảnh giác, tăng cường sức đề kháng!

TIN TƯỞNG VÀO TƯƠNG LAI TƯƠI SÁNG CỦA ĐẤT NƯỚC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Nghiên cứu về lịch sử thế giới thì thấy rõ mỗi quốc gia, dân tộc đều có con đường để đi, song lựa chọn con đường nào đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của lịch sử và phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước thì tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Vì thế, trong dòng chảy chung của lịch sử, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới ách thống trị của hà khắc của thực dân Pháp, nhằm giành lại độc lập, tự do, các phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản - các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp, song cuối cùng vẫn thất bại…

Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và thực tế, những thành tựu mà đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đạt được trong hơn 90 năm qua được thế giới ghi nhận đã cho thấy: Có rất nhiều con đường để đi, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn và phù hợp, là đáp ứng khát vọng sâu sắc, lớn lao của cả dân tộc.

Trong hơn 90 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền và nghĩa vụ công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định; trong đó, quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; luôn chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người, để quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, Dự thảo Báo cáo chính trị nêu chủ đề Đại hội là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, với 5 quan điểm chỉ đạo mới.

Trong đó, Quan điểm 1 nêu tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn tới là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Quan điểm 3 nêu định hướng tạo động lực phát triển: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước…

Định hướng phát triển đất nước này không chỉ phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam mà còn phù hợp xu thế thời đại, bởi trong dòng chảy của lịch sử nhân loại độc lập, tự do, hạnh phúc luôn là khát vọng cháy bỏng, đồng thời cũng là quyền của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Đó cũng chính là những quyền con người cao cả nhất theo Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người.

Vì thế, nhân dân Việt Nam tin tưởng rằng, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thành công tốt đẹp và dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, toàn thể nhân dân Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài cùng đồng tâm, hiệp lực, đoàn kết để xây dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước, làm cho tên dân tộc Việt Nam gắn liền với thời đại Hồ Chí Minh lịch sử được tiếp bồi bằng những trang sử vàng vẻ vang.

TS. Văn Thị Thanh Mai

TS. Đinh Quang Thành

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1-2

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, t 2, t.100

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.88

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.607

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.280

Xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới - từ tầm nhìn văn hóa

(TG) - Hội nghị Trung ương 7 khóa XII ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (Nghị quyết 26-NQ/TW). Những nội dung của Nghị quyết 26-NQ/TW cũng là những luận điểm liên quan đến con người. Để làm rõ những kiến giải được nêu dưới đây, chúng tôi dùng phép biện chứng: vừa xây vừa chống, vừa điểm vừa diện, vừa cái bên trong và cái bên ngoài… nhằm đạt mục đích: con người là vốn quý nhất, là giá trị cao nhất của mọi giá trị văn hóa liên quan tới cán bộ chiến lược - là những người có đức, tài, công, là gốc của mọi chính sự.

Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trao chứng nhận tốt nghiệp cho các học viên Lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII_Ảnh: hcma.vn

CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI CON NGƯỜI

Xây dựng đội ngũ cán bộ là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người, xây dựng con người, rất khó, phức tạp và hệ trọng. Đối với C.Mác, lịch sử là quá trình tự giải phóng mình khỏi những cưỡng bức tự nhiên. Cống hiến quan trọng của chủ nghĩa Mác trong văn hóa chính là vấn đề con người. Con người là giá trị cao nhất của văn hóa. Ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lênin được phổ biến rất sớm cùng với cuốn Đường Kách mệnh (1927) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vai trò con người từ bấy giờ đã được coi là trung tâm của lịch sử, của đời sống xã hội. Mục đích của cuốn Đường Kách mệnh là “ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên, đoàn kết nhau mà làm kách mệnh”, “xác định công nông là gốc của kách mệnh”, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là sự lãnh đạo của một chính đảng theo học thuyết Mác - Lênin, v.v..

Từ khi có chế độ mới đến nay, quan niệm về con người và chiến lược con người vẫn gắn liền với văn hóa, được Đảng không ngừng tư duy nhất quán nhằm xây dựng con người phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả định lượng lẫn định tính. Từ Đại hội VI đến Đại hội XII, vấn đề con người và văn hóa liên tục được đặt ra có hệ thống, tương đối hoàn chỉnh, chứng minh bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng.

Tuy nhiên, ở giai đoạn những năm 80 thế kỷ trước, việc nghiên cứu con người ở nước ta còn dừng ở tư duy đơn tuyến - quan sát và thấu đạt giá trị con người mới dừng lại ở những đức tính như ý thức tự cường dân tộc, có tinh thần đoàn kết, lao động chăm chỉ với cường độ cao… mà vẫn ngại bàn sâu về những yếu kém của người lao động, kể cả cán bộ, trong đó có cán bộ cấp chiến lược. Con người mới chỉ được lý giải còn sơ lược (đó là cái rất khó) còn cái phức tạp được khảo sát cũng mới dừng lại ở con người xã hội, còn con người tâm lý, con người sinh học, con người tâm linh trên các trang viết của các nhà khoa học với cách tư duy còn mờ nhạt.

Nghị quyết 26-NQ/TW đề cập một cách sâu sắc và toàn diện hơn đến vấn đề công tác cán bộ - một lĩnh vực hệ trọng, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc thường xuyên của Đảng. Vì sao vậy? Vì văn hóa lãnh đạo là đạo trị nước. Người xưa coi đạo trị nước là lý tưởng vì dân, an dân, giữ dân. Nhiều thập kỷ trước đây, Bác Hồ coi 5 phẩm chất đạo đức của cán bộ là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, trong đó nhân được đặt lên đầu tiên.

Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới rất đáng ghi nhận, song ở bình diện tổ chức, xây dựng Đảng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ công chức cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao lại bị buông lỏng. Một số không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là những người nằm trong tầng quyền lực lớn phai nhạt lý tưởng, đạo đức suy đồi, lối sống buông thả là do “đức ít mà ân sủng nhiều, tài ít mà địa vị cao, công nhỏ mà bổng lộc lớn” - điều mà người xưa coi đó là tam đại họa. Chính vì thế, Nghị quyết 26-NQ/TW tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá, thể hiện tư duy văn hóa ứng xử với con người ở một tầm cao mới. Hai trọng tâm là: 1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; 2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấpđi đôi vớiphân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Năm đột phá là: 1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; 2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; 3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; 4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; 5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC

Nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là nói đến nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao, uy tín và đội ngũ trí thức tinh hoa. Theo đó, vai trò lãnh đạo cấp chiến lược cần có ít nhất bốn tố chất:

Một là, có uy tín. Người xưa nói “Xử nhân uy bất như xử nhân ái” (Người lãnh đạo đối xử để người ta sợ, không bằng để người ta yêu). Một trong nhiều phẩm chất của người lãnh đạo được dân trọng, tin yêu là tầm nhìn thời cuộc, kiến văn chuyên ngành và đa ngành, biết phát hiện và dùng người tài để bổ sung nguồn lực con người. Đồng thời phải là người hữu đức, hữu tài, công tâm, đủ sức thu phục được người tài.

Hai là, có nhân cách văn hóa. Nhân cách là một giá trị thuộc phạm trù văn hóa đạo đức - thẩm mỹ, nên mới có nhân cách văn hóa. Thực hiện việc tôn trọng nhân cách là làm cho cái tốt trong con người luôn luôn sinh sôi, nảy nở, cái xấu dần dần được đẩy lùi, làm cho con người trở nên tốt đẹp nhờ giáo dục và tự giáo dục. Người lãnh đạo, dù là ở cấp cao không phải lúc nào cũng làm chủ được bản thân, vì trong tay họ có quyền lực nên dễ sinh ra quan liêu, lộng hành… Do đó, muốn làm chủ và chiến thắng được bản thân trước những cám dỗ thì phải có nhân cách văn hóa.

Ba là, được tôi luyện qua thực tiễn. Thực tiễn là môi trường quan trọng nhất để rèn luyện, nâng cao bản lĩnh và sự trưởng thành của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Có kinh nghiệm thực tiễn, có vốn sống, cán bộ lãnh đạo sẽ tránh được cái nhìn phiến diện, ấu trĩ; những quyết sách, chủ trương đưa ra sẽ không “nửa vời” hoặc “nằm trên giấy tờ”. 

Tuyên truyền, vận động bà con các dân tộc thiểu số tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước (Nguồn: quangninh.gov.vn)

Trong văn hóa phương Đông, tiền nhân thường truyền tụng câu nói của Khổng giáo: tu nhân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn làm người lãnh đạo giỏi, cán bộ không chỉ phải biết tu tâm dưỡng tính, có nhân cách, tài cao, đức trọng mà còn phải biết tề gia. Gia đình thiếu nền nếp gia phong, người thân vi phạm pháp luật thì cán bộ lãnh đạo làm sao giữ được “tín” với cấp dưới, với xã hội. Mỹ tục, gia phong là sản phẩm của lịch sử, có sự biến đổi do lịch sử chi phối, nhưng dù biến đổi đến đâu thì gia phong vẫn là “chính gốc của thiên hạ”. Người xưa nói: "Gốc thiên hạ ở tại gia đình. Có dạy bảo được người trong gia đình, nhiên hậu mới dạy được người trong nước…"(1)
Cùng với thực tiễn, cần nói thêm ở đây một yếu tố quan trọng khác làm nên tố chất của cán bộ lãnh đạo - đó là truyền thống: truyền thống cách mạng, truyền thống gia đình. Truyền thống không chỉ là niềm tự hào, mà còn là động lực của sự phát triển. Thực tế cho thấy, phần lớn những cán bộ lãnh đạo giỏi, được tín nhiệm, có tâm, có tầm đều sinh trưởng trong những gia đình truyền thống, có nề nếp gia phong.

Bốn là, có sức khỏe tốt. Đây không chỉ là tố chất để đảm bảo cho mọi hoạt động công tác, đi thực tế… của cán bộ mà còn là nền tảng quan trọng để duy trì trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, có sức khỏe và thể lực tốt cũng là yếu tố quan trọng để cán bộ lãnh đạo thể hiện hình ảnh trong ngoại giao, trong đó có năng lực ngoại ngữ.

VĂN HÓA DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ THAM CHÍNH CỦA DÂN

Nghị quyết 26-NQ/TW có mấy điểm nói đến văn hóa dân chủ. Chỉ xin nêu một điểm có liên quan tiêu đề đang bàn: “Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ”. Điểm nhấn của Nghị quyết là yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác; đề ra giải pháp kiểm soát quyền lực… để củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Khái niệm văn hóa dân chủ không chỉ bó hẹp trong phạm vi phương tiện, quy chế, mà là mục đích cuối cùng của cách mạng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngay từ khi còn ở chiến khu Việt Bắc, để chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Bác Hồ thường căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tìm diệt được”. Tư tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí MInh.

Văn hóa dân chủ ở mỗi quốc gia, ở mỗi thời đại có những quan niệm khác nhau, nhưng tiến bộ nhất, có “mẫu số chung” nhất vẫn là vai trò của dân. Nhà triết học Pháp Montesquieu (l689 -1778), trong tác phẩm “Tinh thần của luật pháp” có trình bày học thuyết về nhà nước được xây dựng trên cơ sở dân chủ, hiệp thương giữa các giai cấp, thừa nhận dân có quyền nắm chính quyền…, nhưng từ đó đến nay lý tưởng của ông về dân chủ trực tiếp vẫn nằm trên giấy. Còn Voltaire (1694 - l778) coi tư tưởng dân chủ là trung tâm của mọi hoạt động chính trị. Ngày nay ở Châu Âu đang xuất hiện khái niệm văn hóa chính trị. Học thuyết chính trị hiện đại khẳng định dân là yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị - một cơ chế đảm bảo quyền tự do tự nhiên của con người…

Ở phương Đông, cho đến nay, khi Trung Quốc đang đi vào hiện đại hóa với mục tiêu trở thành cường quốc, thì triết học Khổng giáo vừa là vật cản, vừa là giá trị đúng có thể chấp nhận. Trong số các giá trị trường tồn phải kể đến vai trò của dân được ghi trong sách “Thượng thư” là Dân vi bản, về sau Mạnh Tử phát triển Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (việc dân là quan trọng nhất, thứ đến là việc của xã hội, và sau cùng là của Vua). Tư tưởng tiến bộ đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng theo tinh thần mới, coi lợi ích của nhân dân là trên hết, trước hết, cán bộ là công bộc của dân... Tư tưởng “dân là chủ” “dân làm chủ” của Hồ Chí Minh cũng là nội dung căn bản được Đảng xác định trong chủ trương, đường lối.

Những tư tưởng tiến bộ dù là của phương Tây hay phương Đông, đều là những cứ liệu để hôm nay chúng ta xây dựng mô hình cơ chế dân chủ, vai trò tham chính quốc sự của nhân dân ở nước ta. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) nêu 6 đặc trưng, mà đầu tiên là do nhân dân làm chủ. Về lý thuyết, vai trò của dân là tương đối rõ, nhưng hiệu quả thì cần bàn thêm để phù hợp với thực tiễn qua từng Đại hội Đảng và kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, có một thực tế phải thẳng thắn chỉ ra là việc vi phạm dân chủ ở nước ta vẫn còn diễn ra ở không ít nơi, nhất là cấp cơ sở. Điều này có một phần nguyên nhân xuất phát từ t bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo còn quan liêu, cửa quyền, nói một đằng làm một nẻo… Chính vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết của Đảng phải quyết tâm khắc phục cho được “bệnh” xa dần, coi thường dân…

Hiện nay, việc thực thi dân chủ ở nước ta nằm ở 4 khâu: Dân chủ bầu cử (Quốc hội, Hội đồng nhân các cấp); Dân chủ ra nghị quyết (Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ địa phương); Dân chủ quản lý (Chính phủ, chính quyền các cấp); Dân chủ kiểm tra, giám sát, thanh tra (các cấp từ Trung ương đến địa phương). Tất cả bốn khâu này muốn đạt hiệu quả, hợp lòng dân, cần lấy văn hóa ứng xử làm cơ sở, lấy văn hóa nhân văn làm mục đích; yếu tố trí tuệ làm chân lý (thảo luận, tranh biện trong dân, nhất là trong tầng lớp trí thức, tránh cưỡng bức, áp đặt). Làm được như vậy là Đảng và Dân tuy hai mà là một, đồng thuận, thống nhất tạo nên sức mạnh trường tồn cho khối đại đoàn kết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.

GS. Viện sĩ HỒ SĨ VỊNH

Bài đăng TCTG số 10/2020

__________________________

(1) Ngô Thì Sĩ: Việt sử tiêu án, Nxb. Thanh Niên, H, 2001, tr.262.

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

Lật tẩy mánh khóe tinh vi của tội phạm tín dụng đen

Dù núp bóng các doanh nghiệp có chức năng cho vay tài chính..., để tiến hành hoạt động cho vay với lãi suất cao, song nhiều đường dây cho vay lãi nặng đã bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện, triệt phá.

Hai đối tượng cho vay nặng lãi tại cơ quan Công an.

Dù các đối tượng đã tìm cách ngụy trang dưới nhiều vỏ bọc tinh vi như lợi dụng mạng viễn thông, Internet, núp bóng các doanh nghiệp có chức năng cho vay tài chính..., để tiến hành hoạt động cho vay với lãi suất cao, song nhiều đường dây cho vay lãi nặng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện, triệt phá.

Từ vụ kiện dân sự phát hiện ra đường dây tín dụng đen

Giữa tháng 9-2020, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ đã điều tra, làm rõ hai vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự; ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với hai đối tượng gồm Phạm Thị Hiền (SN 1972, trú tại khu 7, phường Gia Cẩm, TP Việt Trì) và Lê Thị Kim Thanh (SN 1980, trú tại xã Vĩnh Lại, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) về hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Trước đó, tháng 1-2019, chị Lê Thị Kim Thanh đã thế chấp 30% cổ phần Công ty TNHH Xây dựng thương mại Thịnh Đạt do chị là chủ sở hữu để vay 4 tỷ đồng của anh Lê Quyết Th, Giám đốc của một quỹ tín dụng trên địa bàn TP Việt Trì với lãi suất 3.000 đồng/1 triệu đồng/ngày. Anh Lê Quyết Th yêu cầu chị Thanh làm thủ tục chuyển nhượng 30% cổ phần cho chị Phạm Thị Hiền và chồng chị Hiền là anh Bùi Trường Thắng; thời hạn vay tiền là 7 tháng; hai bên thỏa thuận sau thời hạn này nếu chị Thanh không trả được tiền thì toàn bộ 30% cổ phần thế chấp thuộc về chị Hiền. Tuy nhiên, chị Thanh chỉ trả lãi được 3 tháng sau đó không trả được khoản tiền nào. Sau đó, chị Hiền đã khởi kiện chị Thanh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử công nhận 30% cổ phần Công ty TNHH Xây dựng thương mại Thịnh Đạt Phú Thọ.

Cũng xuất phát từ sự việc này, Hiền đã tố cáo hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của Thanh. Quá trình đấu tranh, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ xác định: Chị Thanh có bạn tên là anh Trần Ngọc Th là cán bộ của tỉnh Yên Bái cần tiền để đáo hạn ngân hàng. Cũng vì nể bạn bè, chị Thanh đã đứng ra bảo lãnh cho anh Th vay 1,7 tỷ đồng của chị Phạm Thị Hiền với lãi suất 15 triệu đồng/ngày, sau 6 ngày thì tính lãi 3.000đ/ngày. Anh Th vay tiền của chị Hiền từ ngày 26-7-2018 đến ngày 31-8-2018 đã phải trả hơn 188 triệu đồng tiền lãi.

Quá trình điều tra, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ xác định: Thông qua mối quan hệ quen biết giữa Lê Thị Kim Thanh với chị Bùi Thị Thu Th (trú tại tỉnh Phú Thọ), trong khoảng thời gian từ tháng 6- 2018 đến tháng 4 – 2019, Thanh đã nhiều lần cho Th vay tiền với lãi suất theo thỏa thuận là 5.000 đồng/ngày/ triệu đồng; khi vay Th nói với Thanh là vay để làm ăn kinh tế. Sau đó, Th vay và trả cả gốc và lãi rất nhiều lần. Các lần vay và trả lãi, Th theo dõi vào trong một quyển sổ A4 kê số lần vay và trả cả gốc và lãi có chữ ký xác nhận của Thanh bên dưới mỗi lần trả. Các lần vay này Thanh cũng có sổ theo dõi việc trả tiền gốc và tiền lãi nhưng không có chữ ký xác nhận của chị Th. Cụ thể chị Th đã 16 lần vay tiền với tổng số tiền là 5.060.300.000 đồng. Chị Th đã trả cho chị Thanh 2.945.300.000đ tiền gốc, hiện còn nợ 2.115.000.000đ. Đối với tổng số tiền cho vay 5.060.300.000 đồng, chị Thanh đã nhận tổng số tiền lãi 5.761.290.000đ; việc trả gốc và lãi này chị Th theo dõi trong quyển sổ của mình ghi các lần trả gốc và lãi có chữ ký xác nhận việc nhận tiền của chị Thanh. Phòng Cảnh sát hình sự xác định Lê Thị Kim Thanh cho chị Th vay với lãi suất gấp 9 lần so với lãi suất mà Bộ luật Dân sự cho phép đã đủ yếu tố cấu thành “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Quá trình điều tra, mở rộng vụ án, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ đã làm rõ hành vi phạm tội của Phạm Thị Hiền. Trong thời gian từ ngày 26-7-2018 đến ngày 31-7, Hiền đã cho anh Trần Ngọc Th (trú tại tỉnh Yên Bái) vay 1,7 tỷ đồng với lãi suất 15.000.000 đồng/ngày = 317,646%/năm, gấp 15,9 lần so với lãi suất mà Bộ luật Dân sự cho phép là 20% và thu lợi bất chính là 84.338.700 đồng. Đến ngày 31-7-2018, anh Th trả được Hiền 400 triệu đồng tiền gốc và nợ gần 1,4 tỷ đồng. Số tiền này, hai bên thống nhất lãi suất là 3.000 đồng/ triệu/ngày = 108%/năm, gấp 5,4 lần so với lãi suất mà Bộ luật Dân sự cho phép là 20%. Tiếp đó, từ ngày 1 đến ngày 15-8-2018 tiền lãi trong 15 ngày là hơn 62 triệu đồng, Hiền thu lợi bất chính hơn 50 triệu đồng .

Trong ngày 15-8-2018, anh Th trả Hiền 700 triệu tiền gốc, còn nợ lại hơn 752 triệu đồng. Khoản tiền này vẫn tính lãi suất 3000đ/1 triệu/ngày = 1080, gấp 5.4 lần so với lãi suất mà Bộ luật Dân sự cho phép là 20%. Từ ngày 15-8 đến ngày 31-8-2018, tiền lãi trong 15 ngày hơn 33 triệu đồng, Hiền thu lợi bất chính hơn 27 triệu đồng. Cơ quan điều tra xác định, Hiền đã cho Th vay tiền với với lãi suất gấp 15 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính trên đủ yếu tố cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự.

Quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Thị Hiền.

Ngăn chặn tín dụng đen

Ngoài vụ án này, thời gian qua, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ còn phát hiện nhiều đối tượng núp bóng các doanh nghiệp có chức năng cho vay tài chính, dịch vụ đòi nợ, kinh doanh cầm đồ tạo vỏ bọc đối phó với cơ quan chức năng để tổ chức các hoạt động cho vay không thế chấp; huy động vốn; kinh doanh tài chính, góp vốn, góp tài sản kinh doanh với lãi suất cao (từ 100% đến 300%, thậm chí lên đến 700%/ năm đối với khoản tiền ở thời điểm vay”...

Theo Trung tá Nguyễn Anh Hùng, Đội trưởng Đội Phòng chống tội phạm theo tuyến địa bàn, Phòng Cảnh sát hình sự, cho biết: “Khi cho vay, đối tượng cho vay đều yêu cầu người vay phải viết giấy biên nhận với nội dung nhận tiền xin việc; viết giấy mua, bán nhà, ôtô... Tuy nhiên trên các sổ sách, giấy tờ đều không thể hiện lãi suất, mà thực tế, các hoạt động cho vay thể hiện trên trang web mà chúng đã mua. Nhưng khi bị phát hiện, các đối tượng đã xóa toàn bộ dữ liệu, đòi hỏi Cơ quan điều tra phải tìm ra được số điện thoại mà chúng dùng để đăng ký sử dụng trang Web mới có thể khôi phục được dữ liệu”.

Trường hợp của Nguyễn Quốc Chính (SN 1982, trú phường Gia Cẩm, TP Việt Trì) và Lê Nguyên Dương (SN 1990, trú phường Dữu Lâu, TP Việt Trì) là một ví dụ. Vào thời điểm bị bắt giữ, Nguyễn Quốc Chính đang là Giám đốc của Công ty TNHH Xây dựng Phúc Đạt. Song đây chỉ là vỏ bọc để đối tượng thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, đối tượng Lê Nguyên Dương từ ngày 1-1-2018 đến ngày 24-3-2020 cũng đã cho nhiều người vay với lãi suất vượt quá quy định.

Từ thực tiễn trên địa bàn, dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an tỉnh Phú Thọ, Phòng Cảnh sát hình sự phối hơp với các đơn vị đã đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội. Cùng với việc chỉ đạo Công an các huyện, thành thị tiến hành rà soát, lập danh sách, lý lịch các đối tượng quản lý, cơ sở cầm đồ, hỗ trợ tài chính trên địa bàn.

Đơn vị đồng thời đã đấu tranh, triệt xóa nhiều ổ nhóm hoạt động tội phạm có liên quan đến tín dụng đen từ các vụ đánh bạc tổ chức đánh bạc. Những kết quả trên đã góp phần kéo giảm tội phạm hình sự trên địa bàn; không để hình thành các các băng,  nhóm tội phạm hoạt động lộng hành theo kiểu “xã hội đen” hoặc sử dụng vũ khí nóng gây án.

Thượng tá Phạm Đình Thi, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Phú Thọ cho biết Công an tỉnh đã và đang triển khai một số giải pháp như đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu được hậu quả có thể xảy ra trong việc tham gia tín dụng đen. Từ đó, chủ động phòng ngừa, không rơi vào cái bẫy của tội phạm.

Hoàng Xuân - Báo điện tử CAND

Tranh luận gay gắt việc tách Luật Giao thông đường bộ

Đại biểu Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) cho rằng Chính phủ hơi vội khi trình việc tách Luật Giao thông đường bộ và đề nghị dành vấn đề này cho Quốc hội khóa XV

Ngày 16-11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội (QH) thảo luận ở hội trường về dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) và Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) đường bộ. Vấn đề tách Luật Giao thông đường bộ thành 2 luật; chuyển thẩm quyền quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe (GPLX) môtô, ôtô từ Bộ Giao thông Vận tải sang Bộ Công an đã làm nóng nghị trường với các phát biểu, tranh luận gay gắt.

Đại biểu Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk) cho rằng việc tách Luật Giao thông đường bộ xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc. Ảnh: NGUYỄN NAM

Cũng đồng ý việc tách 2 dự án luật, ĐB Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk) cho rằng việc xây dựng Luật Bảo đảm TTATGT đường bộ phù hợp với kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. "Việc tách luật không phải phân chia "quyền anh, quyền tôi" mà trên hết là xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc; xây dựng hình ảnh quốc gia văn hóa, văn minh" - ĐB Xuân nhấn mạnh.
Đồng ý với việc tách Luật Giao thông đường bộ, đại biểu (ĐB) Quách Thế Tản (Hòa Bình) nêu quan điểm: "Việc quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về đào tạo, sát hạch cấp GPLX thuộc trách nhiệm Bộ Công an là bảo đảm tính hợp lý, thống nhất, nhất quán từ quản lý, đào tạo, sát hạch, cấp GPLX và kiểm soát. Đây cũng là vấn đề xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn".

Trong khi đó, ĐB Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) cho rằng Chính phủ hơi gấp rút khi trình dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) và Luật Bảo đảm TTATGT. Ông Xuyền nhấn mạnh việc kéo giảm tai nạn giao thông và ùn tắc đòi hỏi đồng bộ nhiều vấn đề về xây dựng hạ tầng giao thông, quy hoạch giao thông... "Trong đó, việc tổ chức giao thông và thi hành pháp luật về giao thông quan trọng nhất chứ không phải là vấn đề mà chúng ta đang xem xét là tách 2 luật này. Do vậy, tôi tha thiết đề nghị QH dành công việc này cho QH khóa XV, bởi vì từ nay đến tháng 3 (kỳ họp QH thứ 11 của QH khóa XIV) còn rất ít thời gian, hơn nữa cần đánh giá rất kỹ lưỡng khi ban hành dự án luật này" - ĐB Xuyền nói.

Liên quan đến thẩm quyền quản lý đào tạo, sát hạch, cấp GPLX, theo ĐB Nguyễn Mai Bộ (An Giang), kết quả của Viện Nghiên cứu lập pháp của QH cho thấy ở Mỹ có 46/50 bang do cơ quan giao thông cấp, có 4 bang là cảnh sát cấp. Ở châu Âu thì chỉ Bulgaria là do cảnh sát cấp, còn lại là do cơ quan giao thông cấp. Tương tự, ở châu Á, chỉ có Indonesia là do cảnh sát giao thông cấp.

Phát biểu cuối phiên thảo luận, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an, khẳng định nếu QH đồng ý việc tách luật và giao trách nhiệm cho Bộ Công an thì trong lực lượng công an sẽ không tăng biên chế; không tăng chi phí, không lãng phí, không tăng các thủ tục về hành chính.

Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể đề nghị QH xem xét thông qua 2 luật tại kỳ họp thứ 11 QH khóa XIV, bởi nội dung của 2 luật hiện nay tương đối đầy đủ. "Nếu chúng ta để qua QH khóa mới, e rằng sẽ kéo dài thêm 1 năm và như thế, những vấn đề bất cập hiện nay không được giải quyết" - ông Thể nói.

Kết thúc phiên thảo luận, Phó Chủ tịch QH Đỗ Bá Tỵ cho biết Ủy ban Thường vụ QH sẽ xin ý kiến ĐBQH về các vấn đề còn ý kiến khác nhau nói trên.

Hôm nay (17-11), QH bước vào ngày làm việc cuối cùng và họp phiên bế mạc. QH thảo luận ở hội trường về dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi); thảo luận, biểu quyết thông qua Nghị quyết về ngày bầu cử toàn quốc đối với cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV, bầu cử ĐB HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026...

Theo báo Người Lao Động

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...