[CAND] Trải qua một thời gian nhân nhượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam. Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.
Cách mạng tháng Tám
thành công, ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á. Nhưng không lâu sau ngày tuyên bố độc lập ấy, thực dân Pháp trở lại xâm
lược Việt Nam.
Trải qua một thời gian
nhân nhượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc
bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam. Ra đời trong thời
khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, trở
thành biểu tượng lớn của sức mạnh đại đoàn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh: Tư liệu) |
Khơi
dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
Cuối năm 1946, sau khi
có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích, công
khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với nước ta.
Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn.
Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn
phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường, chiếm một số trụ sở của Chính phủ
cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu
thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ,
giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Trước âm mưu, hành động
xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng
chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19/12/1946,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định
lịch sử: phát động Toàn quốc kháng chiến. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước
kháng chiến. Sáng 20/12/1946, "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" của
Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà,
bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự
vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng
chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc
ta!
Việt Nam độc lập và thống
nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi
muôn năm!"
Đó là lời hịch cứu nước,
thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ
quốc.
Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng (viết xong ngày 12/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến
nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng
soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Chấp hành mệnh lệnh của
Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta ở các tỉnh Bắc vĩ tuyến 16 có
quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt
là trong các thành phố lớn. Tại Thủ đô Hà Nội, khoảng 20h ngày 19/12/1946, công
nhân Nhà máy Điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện. Đó là hiệu lệnh chiến
đấu toàn thành, mở đầu kháng chiến toàn quốc. Dù quân ta trang bị vũ khí thô sơ
chống lại kẻ địch tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại, nhưng với tinh thần “Quyết
tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ tích cực của nhân dân vẫn
ngày đêm kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố.
Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện...
diệt nhiều địch, gây hoang mang cho kẻ thù.
Cùng với Hà Nội, quân
dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp
xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục sôi,
niềm tin tất thắng. Đến tháng 2/1947, khi địch tăng viện phá vòng vây, lực lượng
ta được lệnh rút về hậu phương, cuộc chiến đấu trong các đô thị tạm thời kết
thúc để chuyển sang giai đoạn chiến đấu mới.
Trải qua gần hai tháng
liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện tiêu hao,
tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh,
thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng,
vật chất (ta đã vận chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên liệu ra vùng căn
cứ); tranh thủ thời gian tổ chức cho hàng chục vạn nhân dân tản cư về vùng căn
cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.
Đoàn
kết vì khát vọng hòa bình
Đã 77 năm trôi qua
nhưng lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
còn nguyên giá trị, khẳng định bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh
vượng. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động
toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946).
Trước hết, đó là kết quả từ một quá trình đấu tranh đầy cam go, phức tạp, thể
hiện bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo, mà biểu hiện cụ
thể là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo vừa linh hoạt, mềm dẻo, nhưng cũng rất
kiên quyết.
Kết quả đem lại là
chúng ta từng bước loại bỏ bớt kẻ thù, tranh thủ được thời gian chuẩn bị tiềm lực
để bước vào kháng chiến. Mặt khác, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến
còn thể hiện rõ sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam, sức mạnh ấy được tạo ra
từ truyền thống yêu nước nồng nàn kết hợp với chiến tranh nhân dân toàn dân,
toàn diện, nhờ đó mà ngay từ đầu chúng ta đập tan âm mưu “đánh nhanh, thắng
nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, mở ra thắng
lợi đầu tiên trong cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo
vệ Tổ quốc (1945-1975). Bao trùm hơn tất cả, quyết định ấy góp phần khẳng định
cho đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc đụng đầu lịch sử với thực dân Pháp.
Trong công cuộc đổi mới,
để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình lâu dài của đất nước, tư tưởng
“hòa bình” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên từ ngày đầu phát động nhân dân bước
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã luôn soi đường, chỉ lối
cho Đảng ta, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta tập trung vào thực hành và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Khát vọng hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ phá hoại, xâm lược,
bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do đất nước ta không chỉ được nuôi dưỡng, hun
đúc, phát huy trong mọi tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang ta, mà còn
được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể trong xây dựng đất nước
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc và chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng
biện pháp hòa bình.
Đến nay, Việt Nam đã cử
789 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại
ba phái bộ và trụ sở Liên hợp quốc, trong đó có 782 cán bộ Quân đội và 7 cán bộ
Công an. Theo đánh giá của các phái bộ và cơ quan Liên hợp quốc, các sĩ quan Việt
Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các phái
bộ, thể hiện sự chuyên nghiệp, kỷ luật cao; có nhiều sáng tạo; để lại nhiều ấn
tượng tốt đẹp với lãnh đạo phái bộ, chỉ huy lực lượng quân sự và đồng nghiệp quốc
tế bằng những đóng góp cụ thể, thiết thực, mang tính nhân văn cao. Những cán bộ,
chiến sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình tại
các phái bộ không những thể hiện được bản lĩnh, năng lực, trách nhiệm của Bộ đội
Cụ Hồ mà còn lan tỏa hình ảnh đẹp của Việt Nam đến với bạn bè thế giới, trở
thành những "sứ giả hòa bình" của đất nước trong mắt bạn bè năm châu.
“Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến” ra đời cách đây đã 77 năm nhưng ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại
của nó vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường,
bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta, đây còn là Cương
lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên
con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiền
Hạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét