[CAND] Một thực tế đó là, mỗi khi có đồng chí cán bộ nào bị xử lý sai phạm thì xuất hiện tâm lý hả hê ở một bộ phận dư luận. Phần đa ý kiến không đồng tình với tâm lý hả hê đó, nhưng điều này cần được nhìn nhận thấu đáo để hiểu rõ vì sao? Một trong những nguyên nhân gây nên tâm lý đó chính là “bệnh xa dân” của cán bộ khiến dư luận đã có cái nhìn tiêu cực, thiếu cảm thông mỗi khi có vụ việc.
1. Mới đây, khi cơ quan chức năng
thực hiện lệnh bắt tạm giam và khám xét nhà riêng của ông Nguyễn Văn Vịnh, cựu
Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bình luận thể hiện tâm
lý hả hê. Căn biệt thự của gia đình ông cựu Bí thư Tỉnh ủy nằm ở vị trí được
xem là đẹp nhất của TP Lào Cai từ lâu đã trở nên xa cách với đời sống của phần
đông người dân. Cũng theo kết luận của cơ quan chức năng, ông Nguyễn Văn Vịnh
có tới 7 lô đất đều nằm ở các vị trí đắc địa của TP Lào Cai, chưa kể những tài
sản khác. Hình ảnh người cán bộ như vậy đã khiến người dân không có cảm
tình.
Tìm hiểu những câu chuyện thực tế ở nhiều địa phương cho thấy,
tình trạng cán bộ mắc “bệnh xa dân” khá phổ biến. Có những nơi đã hình thành
khu ở của người giàu, của một số “quan chức”, hoặc vợ con họ sống xa xỉ, hưởng
lạc. Đó là những khu phố luôn kín cổng cao tường, xa cách với nhân dân lao
động. Ngay tại TP Lào Cai, ngày 24-5-2017, Báo Tuổi trẻ đã đăng tải bài điều
tra “Đấu giá đất biệt thự “đắc địa” Lào Cai: Toàn quan chức trúng”. Theo bài
báo, cả 6 lô biệt thự ở vị trí đắc địa bậc nhất Lào Cai sau đấu giá đều thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của gia đình quan chức tỉnh này, trong đó có ông Nguyễn
Văn Vịnh, khi đó đang đương chức Bí thư Tỉnh ủy.
Chuyện cán bộ mắc “bệnh xa dân” ngày nay thể hiện muôn hình vạn
trạng, đó là cán bộ ít đến với dân, ít nghe tâm tư nguyện vọng của người dân;
cán bộ tránh, trốn tiếp dân bằng nhiều lý do, nhất là khi có “tình huống điểm
nóng”. Người dân không dễ gì gặp được họ dù ý kiến, nguyện vọng muốn trình bày
với người có trách nhiệm giải quyết là chính đáng và cần thiết.
Luật pháp có quy định, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở đều phải thực hiện tiếp công dân. Người đứng đầu phải định kỳ tiếp công dân
theo quy định của luật. Mục đích của việc tiếp công dân chính là sự gần dân, là
để nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tiếp nhận ý kiến của công dân để giải quyết, để
ban hành chủ trương, chính sách sát thực tiễn. Tuy vậy, kết quả nội dung thanh
tra trách nhiệm của các địa phương trong thực hiện việc tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo những năm qua cho thấy một tình trạng phổ biến đó là
việc tiếp công dân định kỳ của người đứng đầu không đầy đủ, không nền nếp, ủy
quyền cho người khác tiếp công dân, nhiều người đứng đầu nhiều năm không tiếp
công dân. Chính vì người đứng đầu, có thẩm quyền giải quyết những vấn đề bức
xúc của nhân dân lại không tiếp dân khiến bức xúc của người dân không những
không được giải quyết mà còn bị đẩy lên cao, trở thành điểm nóng.
Ở một góc độ khác, chính vì mắc “bệnh xa dân” nên có những cán bộ chỉ nắm được tình hình qua báo cáo. Mà chất lượng báo cáo thì không phải ở đâu, chỗ nào cũng đúng, cũng thực chất. Tình trạng “tô hồng” báo cáo là một “trọng bệnh” với đa số ưu điểm, thành tích mà lảng tránh khuyết điểm, yếu kém.
2. Trở lại với nguyên lý gốc về
người cán bộ và nhân dân thì mối quan hệ này như thế nào trong chế độ xã hội
chủ nghĩa, hay cụ thể nhất là Nhà nước ta? Cán bộ thực chất là những thủ lĩnh
của nhân dân trong mối quan hệ công nhân-nông dân-trí thức và đoàn kết mọi lực
lượng yêu nước bền chặt. Nguyên nghĩa đó là những hạt nhân tinh túy trong phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các giai tầng khác để giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp.
Vì là những hạt nhân tinh túy
nhất nên dĩ nhiên họ xuất phát từ chính những người dân, từ nhân dân mà ra, qua
quá trình lăn lộn trong đấu tranh, lao động mà trưởng thành. Đắm mình trong
thực tiễn, họ đã xuất sắc hơn so với đại đa số quần chúng, cả về tài năng, trí
tuệ và đặc biệt là phẩm chất đạo đức tốt đẹp (đạo đức cách mạng). Họ trở thành
thủ lĩnh để dẫn dắt, lãnh đạo quần chúng. Nhưng mục đích lớn nhất đó là dẫn dắt
quần chúng làm cách mạng, phục vụ cách mạng chứ không phải là những người làm
quan phát tài, ăn trên ngồi trốc. Cần thiết phải nói rõ ngọn nguồn như vậy để
hiểu sâu sắc người cán bộ là ai, họ đứng ở vị trí nào và phải làm gì cho nhân
dân.
Soi điều đó vào thực tiễn,
trong suốt sự nghiệp cách mạng của dân tộc đã có biết bao thế hệ cán bộ thực sự
là của nhân dân, vì nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng. Họ
lớn lên trong cách mạng, vào sống ra chết vì cách mạng, vì sự ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Chính nhân dân đã rèn luyện, đào tạo cán bộ, từ phẩm chất, bản
lĩnh đến ý chí, hành động. Trong suốt quá trình thực tiễn lịch sử đất nước càng
thấm thía điều đó. Ai từng một lần đặt chân đến di tích Nhà tù Phú Quốc, Nhà tù
Côn Đảo hay nhiều nhà tù khác mới hiểu hết tấm lòng kiên trung vì nước, vì dân
của những chiến sĩ cách mạng trong sự nghiệp cao cả của dân tộc. Họ là những
cán bộ, đảng viên của dân tộc, của nhân dân. Trong số hàng vạn chiến sĩ cách
mạng ấy, đã có nhiều người sau này trở thành cán bộ chủ chốt, giữ các cương vị
cấp cao của đất nước nhưng họ vẫn giữ mãi những phẩm chất cao quý, thanh liêm
đó. Họ đã được dân tin, dân quý, dân chở che, bảo vệ.
Ngày nay, trên thực tế, rất
nhiều cán bộ, từ Trung ương đến cơ sở vẫn nỗ lực để lo cho người dân có cuộc
sống tốt đẹp, nhất là lo cho người dân trong thiên tai, dịch bệnh, trong xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội. Hình ảnh những cán bộ luôn hết lòng
vì dân, từ suy nghĩ đến việc làm rất đáng trân trọng. Những mô hình như “ngày
cuối tuần cùng dân” khởi đầu từ huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) qua thực tiễn 4
năm, giờ đã được nhiều địa phương hưởng ứng bởi tính hiệu quả gần dân của nó.
Nhiều tấm gương người tốt, việc tốt kể về việc cán bộ gần dân, vì dân, giúp
dân, dân giúp, xuất hiện thường xuyên trên mặt báo thật đáng quý.
Người cán bộ khi đó không chỉ
tạo sự gần gũi, gắn kết giữa người dân với chính quyền, với tổ chức mà điều
quan trọng nhất là việc này đã giúp đội ngũ cán bộ được nghe, tiếp nhận được
thông tin đúc rút từ thực tiễn để tham mưu, ban hành các chủ trương, chính sách
đúng, tháo gỡ được vướng mắc, khó khăn từ cơ sở. Suy cho cùng, việc cán bộ phải
vì dân vẫn luôn là bài học lớn và rất sâu sắc, đúng như tinh thần Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải
luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng".
3. Đã có rất nhiều cảnh
báo, phân tích về hệ lụy ghê gớm của “bệnh xa dân”, một biểu hiện rõ nét nhất
của tệ quan liêu nếu mỗi cán bộ, đảng viên không thực tâm rèn luyện. Chính vì
xa dân, không được nghe và không chịu nghe những ý kiến từ đời sống khiến cán
bộ mắc thói quan liêu, cửa quyền. Chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người cũng
lớn lên từ đó, là căn nguyên khiến cán bộ hư hỏng.
Lãnh tụ vĩ đại của phong trào
cộng sản và nhân dân thế giới V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Toàn bộ công việc
của tất cả cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết vì bệnh quan
liêu. Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng, giáo dục
cán bộ công quyền phải trọng dân, gần dân, vì dân mới làm được cách mạng và đó
mới là mục đích của cách mạng. Ngay từ những ngày đặt viên gạch đầu tiên để xây
dựng nền móng cách mạng, Bác đã nhiều lần nhấn mạnh: “Có dân là có tất cả”.
Trong cuộc đời mình, Người đã dành nhiều thời gian đi cơ sở, thăm nhân dân, cán
bộ, công nhân, người lao động. Trong những lần đến, Bác rất chú ý thăm đồng
bãi, công trường, nhà ăn, nơi ngủ nghỉ của công nhân, người lao động. Theo một
thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 10 năm, từ năm 1955 đến 1965, Bác đã về địa
phương, cơ sở, đến với nhân dân hơn 700 lần. Những chuyến đi của Bác thường
không được báo trước, gọn nhẹ, không gây tốn kém, lãng phí cho cơ sở. Nhiều lần
Người còn mang cơm nắm đi, ăn cùng cảnh vệ cho đỡ phiền phức địa phương và đặc
biệt là tác phong giản dị, không bao giờ quan cách.
Để mỗi cán bộ, đảng viên thấm
nhuần tư tưởng và hành động, đặc biệt chống thái độ thờ ơ, vô cảm, quan liêu,
“bệnh xa dân”, cùng với từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp của cả hệ thống
chính trị, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị trong vấn đề này. Điển hình
là Quy định số 11-QĐi/TW “về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc
tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của
dân” được Bộ Chính trị khóa XII ban hành. Quy định này đã yêu cầu đội ngũ bí
thư, cấp ủy và rộng hơn là mỗi cán bộ phải khắc phục biểu hiện thiếu sâu sát
thực tế cơ sở, xa dân; cần coi việc gần dân, công tác tiếp dân, giải quyết tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị.
Đặc biệt, Nghị quyết số
04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ” đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của
cán bộ, đảng viên. Trung ương chỉ rõ 1 trong 27 biểu hiện suy thoái đó là “quan
liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không
nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách
nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.
Nhìn nhận từ lý luận gốc đến
thực tiễn sự vận động phát triển trong xã hội ngày nay, càng thấy vấn đề “gần
dân, hiểu dân, trọng dân và vì dân” là cốt tử của mỗi người cán bộ, đảng viên
trong cơ quan công quyền. Cán bộ mà quan liêu, xa dân thì chỉ có hại cho dân,
cho nước và hại cho chính họ. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát
biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ:
“Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu
làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
NGUYỄN HÀ MY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét