(TG) - Công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta luôn quan tâm, dành nhiều chủ trương ưu tiên, đầu tư phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh… đối với vùng dân tộc và miền núi .
Ảnh minh họa |
CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC
TRONG THỜI GIAN QUA
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất
nước đến nay được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị,
nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng
giai đoạn, với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: “Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng
nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi
âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc;
quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống
nhất”(1).
Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân
tộc đã mang tính toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc và
niềm núi (DT&MN) và luôn được sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn nhằm phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN cùng với sự phát triển
chung của đất nước. Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc
trong thời kỳ đổi mới đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh,
nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư... của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị nên trong những năm qua, công tác dân tộc đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Tính riêng trong giai đoạn 2016 - 2020, vùng đồng bào
DT&MN có những chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 7%/năm; tỷ lệ hộ nghèo vùng DT&MN giảm 4%/năm; các huyện nghèo giảm 4 - 5%, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ cận nghèo toàn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thôn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, có 27 huyện (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.
Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh
đến trung tâm các huyện đã được rải nhựa hoặc bê tông hoá 100%; các xã có đường
ô-tô đến trung tâm đạt 98,4%; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới
quốc gia đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% xã có
trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thôn có nhà văn hóa, nhà
sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thôn có đường giao thông được kiên cố tăng 16,7% so
với năm 2015.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ
người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ
đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ
thông tăng 14,7%. Đến hết năm 2020 cả nước đã xây dựng được 316 trường phổ
thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4 trường và 3
khoa dự bị đại học dân tộc. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho người lao động dân tộc thiểu số đạt được một số kết quả quan trọng.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, đến hết
năm 2020 vùng DT&MN có 99,5% số xã có trạm y tế; trong đó, có 83,5% trạm y
tế đạt chuẩn quốc gia (tăng gấp 2 lần so với năm 2015); số trạm y tế có bác sỹ
chiếm 77,2%. Bên cạnh đó, có 93% số người dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm
y tế. Ngoài ra, tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7%; hôn nhân cận huyết giảm 0,9%.
Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả đáng
ghi nhận, trong đó, tiếp tục công nhận 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch
sử văn hóa quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là người dân
tộc thiểu số; hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc thiểu số
… có 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng được 22 thứ tiếng
dân tộc, phù hợp với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết năm 2020 đã xây dựng được
hơn 16.000 điểm bưu điện văn hóa xã; có hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền.
Công tác phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn được
quan tâm. Tính đến hết năm 2020, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc
thiểu số chiếm khoảng 14,5%; trong đó, giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp
chiếm 17,2%. Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ trực thuộc
Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 -
2020) là 0,72%; ủy viên ban thường vụ đạt tỷ lệ 11,86%, cao hơn nhiệm kỳ trước
(2015 - 2020) là 0,51%; bí thư cấp ủy người DTTS có 9,23%, cao hơn nhiệm kỳ trước
(2015 - 2020) là 1,54%. Trong đó, tỷ lệ đảng viên là người dân tộc thiểu số
tăng từ 10,94% năm 2012 lên 11,98% năm 2019.
Bên cạnh đó, công tác quốc phòng, an ninh luôn được củng cố và tăng cường,
trong đó, đã chủ động phát hiện, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xảy
ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự trên địa bàn vùng DT&MN(2).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu
kém, đó là: “Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền
Trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung của cả nước, đời sống
của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận
nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia
tăng; khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội còn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa
được giải quyết hiệu quả; cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số
nơi chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự”(3).
Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân, trong
đó có cả khách quan và chủ quan, đó là: Điểm xuất phát của vùng đồng bào
DT&MN còn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thông khó khăn, khí hậu
khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lực
còn thấp. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền, nhận thức chưa đầy đủ về
công tác dân tộc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt; sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, đồng bộ; một số chính sách còn chồng
chéo, nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, một bộ phận đồng bào dân tộc
thiểu số còn có tư tưởng bằng lòng với hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.
CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA
ĐẢNG
Để đẩy mạnh phát triển bền vững toàn diện vùng DT&MN cùng với sự
nghiệp phát triển chung của đất nước, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc
trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nêu rõ: “Đảm bảo các dân tộc bình
đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động phân bổ, sử dụng, quản lý
hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh
tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc
thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của
đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo
đa chiều bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(4)
Bên cạnh đó, văn kiện cũng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù
chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế,
việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở
vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. Triển khai các chương trình dự án phát triển
kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc
biệt khó khăn”(5).
Trong xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đẩy mạnh phát triển các
vùng, văn kiện đã nêu ra những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, như: Với vùng trung du và miền núi phía
Bắc cần “Phát huy các lợi thế về tài nguyên rừng, khoáng sản, các cửa khẩu, văn
hoá dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ…”(6). Đối
với vùng Tây Nguyên, bên cạnh phát triển các thế mạnh của vùng cần đẩy mạnh
“Phát triển nguồn nhân lực, ổn định dân cư, ưu tiên bảo tồn và khôi phục các
giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc của các dân tộc vùng Tây Nguyên”(7).
Đối với các vùng khác như: Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung hay
vùng đồng bằng sông Cửu Long, dù văn kiện không nêu lên những vấn đề có liên
quan cụ thể đến đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa phát
huy các ưu thế của vùng để phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao đời sống
của nhân dân trong vùng nói chung, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số
nói riêng, bởi đây là những vùng có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống,
So với các kỳ đại hội trước đây, chủ trương, đường lối về công tác dân
tộc được đề ra chỉ mang tính khát quát chung toàn bộ về vùng dân tộc và miền
núi thì trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng đã chủ trương chú trọng đến
tính đặc thù của từng vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình
xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đây được xem là điểm mới có ý
nghĩa hết sức quan trọng để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng nhằm đảm
bảo phù hợp với bản sắc văn hoá, phong tục tập quán của từng vùng cũng như từng
dân tộc. Vấn đề này không chỉ giúp cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khắc phục những hạn chế, yếu kém trong
thời gian qua, bởi từng vùng hay mỗi dân tộc đều có những đặc điểm khác nhau,
nhất là các đặc điểm về bản sắc văn hoá truyền thống. Đồng thời, còn “Giải quyết
hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ
rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu
số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền
Trung”(8).
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém về công
tác dân tộc trong những năm qua nhằm phát triển toàn diện vùng DT&MN theo
chủ trương, đường lối của Đảng trong văn kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới
cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng
về công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 65-KL/TW,
ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”.
Đồng thời thực hiện tốt các nghị quyết, các chương trình mục tiêu quốc gia như:
Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia
về giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách còn hiệu lực đối với vùng đồng
bào DT&MN. Trong đó, tập trung cao độ thực hiện thắng lợi các mục tiêu về
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết số
88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội khoá XIV.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chính sách về
phát triển kinh tế - xã hội vùng DT&MN theo hướng toàn diện, bền vững. Đồng
thời, mở rộng vốn ưu đãi đối với các chương trình, dự án, tạo sinh kế cho đồng
bào; đẩy mạnh việc đa dạng hoá và xã hội hoá các nguồn lực, trong đó, nguồn lực
nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định trong việc huy động các nguồn lực
khác. Đổi mới chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng
tăng định mức và mở rộng đối tượng cho vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh của
đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong đó, để phát huy tiềm năng lợi thế của vùng DT&MN trong phát
triển kinh tế cần đẩy mạnh các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôn có năng suất,
chất lượng cao để sản xuất hàng hoá theo chuỗi giá trị nhằm cho phù hợp với các
vùng và phù hợp với đặc điểm văn hoá, tập quán của các dân tộc. Bên cạnh đó, cần
chú trọng đầu tư và khai thác các giá trị văn hoá truyền thống của các DTTS gắn
với phát triển du lịch, dịch vụ nhằm tạo sinh kế và công ăn việc làm, tăng thêm
thu nhập cho đồng bào các dân tộc. Đồng thời, khơi dậy tinh thần tự lực, ý chí,
khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển
kinh tế để làm giàu chính đáng.
Ba là, ưu tiên nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng
kiên cố nhằm đảm bảo đến năm 2025 có “100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm được
rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hoá; 100%
số trường lớp và trạm y tế được xây dựng kiên cố. Trong đó, đến năm 2030 có
trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ
tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân”(9)
để thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai như lũ ống, lũ
quyét, khô hạn, nước biển dâng… Cùng với đó, cần tăng cường đầu tư đồng bộ hạ tầng
viễn thông, năng lượng nhằm đảm bảo có 99% số hộ gia đình vùng đồng bào
DT&MN được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp. Đồng
thời, đẩy mạnh dịch vụ phát thanh, truyền hình nhằm đảm bảo đến năm 2030, đạt
100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công nghệ thông tin để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt
của đồng bào.
Bốn là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực về văn hoá, xã hội ở vùng đồng
bào DT&MN. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo; tiến hành phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đầu tư, phát triển hệ thống các trường
dân tộc nội trú, bán trú và các trường dự bị đại học. Hỗ trợ việc ăn, ở cho học
sinh, sinh viên các vùng như vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng đặc biệt
khó khăn. Đồng thời, cần đổi mới phương thức và chính sách cử tuyển đối với con
em đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở các khu vực đặc biệt khó khăn. Đẩy
mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối
với thanh niên các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy
nghề.
Bên cạnh đó, cần nâng cao tỷ lệ và chất lượng khám chữa bệnh cho đồng
bào, nhất là tuyến cơ sở, đẩy mạnh đầu tư các dịch vụ y tế; phát triển y học
dân tộc kết hợp với y học hiện đại; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế nhằm
tạo điều kiện cho đồng bào được khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến tuyến trung
ương. Xây dựng và đẩy mạnh chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em
nhằm nâng cao về thể chất, tầm vóc của thanh, thiếu niên người dân tộc thiểu số.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá cơ
sở ở từng vùng, từng địa phương phù hợp với văn hoá và tập quán của các dân tộc;
quan tâm sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống,
kể cả vật thể và phi vật thể. Kiên quyết xoá bỏ các hủ tục lạc hậu và sớm chấm
dứt tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Nâng cao hơn nữa mức hưởng thụ
về văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Năm là, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhất là
ở những vùng trọng điểm, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Chú trọng hơn
nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh
việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ người dân tộc
thiểu số trong thời kỳ mới theo quy định. Đồng thời, có chính sách đặc thù
trong việc tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất
là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và
thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ người dân tộc thiểu số. Bên cạnh
đó, cần đổi mới tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước
về công tác dân tộc để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời,
có cơ chế, chính sách biểu dương, tôn vinh những người có uy tín, già làng, trưởng
bản có nhiều đóng góp cho công tác dân tộc.
Sáu là, đẩy mạnh công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế
trận an ninh nhân dân ở vùng DT&MN vững chắc. Kiên quyết làm thất bại mọi
âm mưu của kẻ thù trong việc chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Đồng thời,
không để xảy ra các “điểm nóng” phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các địa
bàn chiến lược xung yếu như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và tây duyên hải
miền Trung.
Bảy là, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức
chính phủ, phi chính phủ trên thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm, thu hút các
nguồn lực để đầu tư cho các chương trình, dự án; chuyển giao khoa học - kỹ thuật
cho phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN. Có cơ chế khuyến khích cộng đồng
người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài đóng góp nguồn lực cho phát triển
toàn diện vùng DT&MN.
Có thể thấy, với quan điểm công tác dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị. Vì vậy,
để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong văn
kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới cần tiến hành triển khai thực hiện các
giải pháp trên để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và thu hẹp dần khoảng
cách về mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số so với bình quân chung của cả
nước.
ThS. LÊ THANH BÌNH
Học viện Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc
(1) Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tlđd, tr.77.
(2) Xem: Đỗ Văn Chiến: Báo cáo tham luận: Một số kết quả chủ yếu phát
triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
giai đoạn 2021 - 2025, trình bày ngày 27-1-2021 tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
(3) Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về Tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về Công
tác dân tộc trong tình hình mới.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2021, t.1, tr.170
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 252
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 153
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.155
(8) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2016. tr.164
(9) Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội khoá XIV
về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét