(TG) - “Dân thụ hưởng” là một trong những điểm mới quan trọng của Văn kiện Đại hội XIII trong tổng thể phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021.
Lấy
dân làm gốc là bài học truyền thống trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tầm quan trọng của việc lấy dân làm gốc trong
quá trình lãnh đạo cách mạng. Người từng nhấn mạnh: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách...
của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”(1). Người cũng đã đặt
nền tảng tư tưởng cho phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” mà Đảng ta luôn quán
triệt, vận dụng, phát triển ngày càng sâu sắc.
Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn 35 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội đại biểu
Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới quan trọng và vô
cùng ý nghĩa, đó là “Dân thụ hưởng”, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2). Điều này cho thấy, Đảng ta luôn chú trọng
đặt quyền lợi của người dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối của mình với mục đích cuối cùng là người dân được thụ hưởng thành quả.
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN
Khái niệm “dân thụ hưởng” thể hiện sự quan tâm thiết thực
đến đời sống của người dân, nghĩa là người dân có quyền được thụ hưởng những thành quả
của sự phát triển. Đồng thời, khi người dân được thụ hưởng, được thỏa mãn các lợi ích
chính đáng, sẽ tạo thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người hăng hái cống hiến, đóng
góp nhiều hơn vào sự phát triển của xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa thụ hưởng và cống hiến nếu được thực
hiện được đúng sẽ tạo ra một xung lực mới trong quá trình phát triển đất nước. Từ đó, hoàn thiện và hiện thực hóa thêm một bước tư tưởng phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân
Khi
nói dân thụ hưởng nghĩa là đang nhấn mạnh
việc thực hiện hóa nội dung “có làm có hưởng”.
Đồng thời, nhấn mạnh đến sự bao trùm, đến đa số nhân dân, mọi giai cấp, mọi
tầng lớp đều có cơ hội bình đẳng về mặt thụ hưởng thành quả của sự phát triển;
chứ không chỉ là một số nhóm xã hội hay những tầng lớp có ưu thế hơn. Hơn thế,
khi nói dân thụ hưởng không phải chỉ đơn thuần là Đảng muốn hướng đến ý nghĩa
sâu xa, bao quát, mà đó chính là việc thỏa mãn các lợi ích chính đáng, đa dạng
trong xã hội của người dân, để biến lợi ích trở thành động lực cho sự phát
triển. Đây là sự phát triển trong nhận thức của Đảng, là động lực hoàn thiện
các chủ trương, đường lối của Đảng trong tiến trình phát triển, lãnh đạo đất
nước.
Đảng
ta từ khi thành lập đến nay, trong tất cả các cương lĩnh đều lấy mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân dân, giải phóng giai cấp. Từ cương lĩnh lần thứ nhất,
thứ hai, thứ ba rồi các văn kiện đại hội đều đặt nhân dân là mục tiêu để phấn
đấu. Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 30
năm thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1960), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, “Đảng ta vĩ
đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
ta không có lợi ích gì khác”(3). Trong Di chúc, Người căn dặn:
“Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(4). Đây chính là quan
điểm chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta.
Tại Đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng ta nêu
quan điểm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao
động tự quản lý Nhà nước của mình”(5). Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ cần phải xây dựng
cơ chế cụ thể trong thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua các
cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ trong
quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) tiếp tục nhấn mạnh: “Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp
tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
được nhân dân tham gia ý kiến”(6). Văn kiện Đại hội XII cũng khẳng định: “vai trò của nhân dân đã được phát huy
trong việc bảo đảm việc thực thi thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ
của nhân dân theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát””(7).
Có
thể thấy, việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ
được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hóa và
bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Ngay ở Điều 1 Hiến pháp
năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên
của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã khẳng định:
“... Tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Ðiều 2), “Nhà nước bảo đảm
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 3)...
THỰC TIỄN THỰC HIỆN DÂN CHỦ THỜI GIAN QUA
Thời
gian qua, nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của các cấp uỷ, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác
kiểm tra, giám sát được tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đạt được những
kết quả quan trọng. Thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục
hành chính có sự nỗ lực, sáng tạo đáng ghi nhận. Công tác đối thoại, tiếp công
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính
đáng, hợp pháp của người dân, doanh nghiệp được quan tâm, chú trọng hơn. Tinh
thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có nhiều tiến bộ. Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của
cộng đồng, tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá hiệu quả, phát huy được
dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư.
"Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các chủ trương, chính sách; nắm được những thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan; biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, dự toán, quyết toán ngân sách... Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội."
Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền
làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình.… tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng
lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần đưa đất nước vượt qua
khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng
Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận
trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng cao vị thế đất nước ta trên trường
quốc tế.
Bên
cạnh những kết quả đạt được, trong mối tương quan so sánh với nhu cầu khách
quan của sự phát triển đất nước, thực tiễn dân chủ ở Việt Nam vẫn còn có những
hạn chế, bất cập, cả ở việc nhận thức, thực hành, phát huy dân chủ và giám sát
và phản biện xã hội; chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực
tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương;
chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp.
Công tác tuyên truyền, quán triệt đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở một số
địa phương, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời và thực chất; nhiều nơi thực hiện còn mang
tính hình thức, chậm trễ. Cơ chế công khai các nội dung liên
quan ở nhiều địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ. Việc phát huy vai
trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa
phương, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn thiếu thực chất. Việc
thực hiện quy chế dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp ngoài nhà nước, khu vực dân doanh còn nhiều hạn chế, vướng mắc; có
lúc, có nơi còn tình trạng vi phạm dân chủ, gây bức xúc, khiếu
kiện đông người, vượt cấp. Việc nắm tình hình và xử lý các vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân chưa kịp thời. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến
các cơ quan chức năng còn cao; việc giải quyết đơn,
thư khiếu nại, tố cáo chưa được như mong
muốn; chưa khắc phục được tình trạng chính quyền ở
không ít nơi chưa đối thoại với công dân...
"Bên cạnh những bức xúc dẫn đến khiếu kiện, xuất phát từ tình trạng tiêu cực, quan liêu của bộ máy công quyền ở một số nơi, thì vẫn còn một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự an toàn xã hội, vi phạm pháp luật."
Từ
những hạn chế, bất cập nêu trên, có thể nói việc phát huy dân
chủ ở không ít nơi vẫn còn mang tính hình thức.
Theo đó, quá trình thực hiện phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Khi
việc thực hiện dân chủ còn những khiếm khuyết, thiếu thực chất và chưa đầy đủ, thì đó sẽ là một
rào cản lớn đối với sự phát triển của đất nước. Đó còn là
sự lãng phí nguồn lực nội sinh - không thể mở rộng cơ hội để huy động một cách triệt để,
hiệu quả các nguồn lực, trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia
vào sự phát triển. Sự hạn chế về dân chủ còn khiến sức mạnh bảo vệ Tổ quốc,
đặc biệt là sức mạnh tinh thần và văn hóa khó tránh khỏi bị phân tán, lãng phí.
Nguyên
nhân chính của những hạn chế, bất cập vẫn là do chưa thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương, phương châm của Đảng, chưa phát
huy tối đa quyền làm chủ của người dân vào mọi “ngõ ngách” của đời sống, dẫn đến việc hiểu và thực hiện chưa thống nhất.
Nghị
quyết Đại hội XIII đã bổ sung, cụ thể thêm một bước tư tưởng phục vụ nhân dân trong đường lối chủ
trương của Đảng. “Dân hưởng thụ” chính là
sự phát triển về chủ trưởng, quan điểm của Đảng, có ý nghĩa thiết thực, quan
trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “…trong mọi công việc của
Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân
là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8). Theo đó, xây dựng và phát huy nguồn lực con người là động
lực quan trọng, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ tới. Nói cách khác, nhân dân
được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức
mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình đưa chủ
trương quyết sách của Đảng vào cuộc sống. Đó cũng chính là động lực quan trọng để hiện thực hóa định hướng và tầm nhìn
trong giai đoạn mới là khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Để
“Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện,
đặc biệt là dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có
hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng”(9), đảm bảo người dân được thụ hưởng, cần chú trọng những
yếu tố và điều kiện sau đây:
Một là,
để quan điểm, chủ trương “dân giám sát và dân thụ hưởng” của Đảng được thực
hiện thắng lợi trong thực tiễn cần quyết tâm rất lớn từ nhận thức đến hành động của cả hệ thống chính trị. Nhận thức phải thống nhất từ
trên xuống dưới, nhất là đối với cơ sở.
Phương
châm “dân thụ hưởng” chỉ trở thành hiện thực khi mối quan hệ giữa người dân và
chính quyền trở thành dịch vụ công ích minh mạch, chứ không phải “xin - cho”
hay “ban phát”. Theo đó, cần có hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho cấp ủy, tổ
chính quyền các cấp; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, các hội hợp pháp
phối hợp chặt chẽ, hoạt động thuận lợi. Ban Dân vận cấp cơ sở tham mưu
cho cấp ủy đảng các bộ ngành quan tâm rà soát, quán triệt và thực hiện nghiêm
túc những nội dung liên quan đến phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ, đẩy mạnh phương châm “dân thụ
hưởng”.
Hai là, “mọi chủ trương, chính sách
phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(10). Thực hiện công
bằng xã hội phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, bảo đảm
nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang
pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột cơ bản
(phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro).
Ba là, phải có chế tài cụ
thể để đảm bảo điều kiện thực thi “dân giám sát, dân
thụ hưởng”. Theo đó, nếu không làm hoặc làm sai thì phải chịu trách nhiệm.
Thậm chí, nếu gây khó dễ cho vai trò giám sát, lợi ích của dân, gây ảnh hưởng
đến lợi ích, quyền lợi chính đáng của dân thì phải bị xử lý trách nhiệm và đền
bù thỏa đáng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được
tình trạng chế tài chưa đủ mạnh, chưa đủ tính răn đe; dẫn đến đường lối đúng,
chủ trương hay nhưng lại bị “méo mó,
biến dạng” khi đưa vào thực tiễn cuộc sống.
Cần phát huy quyền làm chủ của người dân gắn quyền lợi với
trách nhiệm. Khuyến khích, nâng cao nhận thức cho người dân, tạo điều kiện thúc
đẩy việc lắng nghe, trao đổi, đối thoại. Củng cố cơ chế khiếu nại, tố cáo cho hiệu quả. Cần có hình
thức trọng tài bảo vệ quyền của người dân khi bị ảnh hưởng.
Bốn là, bồi dưỡng, giáo dục, củng cố, phát huy năng lực, tư duy hiện đại và thái độ vì dân phục vụ, tận tụy và
cống hiến của đội ngũ công chức, viên chức trong bộ máy công quyền. Cán
bộ, công chức phải thực sự cầu thị, coi trọng ý kiến, phản ánh của người dân
cũng như gần gũi, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và bức xúc của người dân để đối
thoại, tiếp thu, phản hồi, xử lý nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả. “Dân thụ hưởng” phải
được bắt đầu từ việc “trọng dân,
gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(11) của
đội ngũ công chức, viên chức. Đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị phải luôn thấm nhuần bài
học: Đảng ta lấy lợi ích của nhân dân để định hướng mục tiêu lãnh đạo, lấy sự
ủng hộ của nhân dân làm chỗ dựa cho hành động; lấy sự hài lòng của nhân dân làm
thước đo kết quả.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh có chất lượng việc sắp xếp tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả bộ máy hành chính, công quyền, trong đó tập trung: “Xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”(12). Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường phân công,
phân cấp; mạnh dạn trao quyền tự chủ cho địa phương, cơ sở, nhấn mạnh trách
nhiệm và phát huy sáng tạo của người đứng đầu. Bảo đảm sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ trên cơ sở “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình,
kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà
nước, và của cán bộ, công chức, viên chức”(13) để mọi người dân đều được thụ hưởng công bằng, bình đẳng./.
TS.Nguyễn Ngọc Ánh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
_______________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.13, tr.164.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.2,
tr.249, 248.
(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.402, 498.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.72-73.
(6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc
gia, H, 2016, tr.38, 169.
(8) (9) (10) (12) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.27-28, 172-173, 28, 118,
118.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét