Bài 4: Bài học về xây dựng quân đội
QĐND - Hiện nay, xuất hiện nhiều luận điệu kêu gọi chúng ta nên
thực hiện "phi chính trị hóa", "dân sự hóa" quân đội. Trong
thể chế tư bản chủ nghĩa, quân đội nhiều nước được xây dựng theo mô hình đội
quân nhà nghề với mục tiêu, cách thức hoạt động hoàn toàn khác với Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Song nhìn từ sự thất bại, sụp đổ của một
số chính quyền trong "Mùa xuân Arab" cho chúng ta có thêm những bài
học thực tiễn sinh động khẳng định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối xây
dựng Quân đội ta hiện nay.
Vài nét đặc thù về quân đội các nước Arab
Quân đội của hầu hết các quốc gia Arab đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong bộ máy quyền lực do đặc điểm lịch sử và chế độ chính trị. Sau
Chiến tranh thế giới lần hai đã định hình vai trò của quân đội trong các diễn
biến chính trị. Quân đội trở thành trung tâm quyền lực của nhà nước và
cũng là lực lượng tổ chức hàng loạt cuộc đảo chính vũ trang. Theo thống kê của
trang Defense News, trong 22 năm, từ năm 1949 đến 1971, giới quân sự đã tiến
hành 8 cuộc đảo chính ở Syria và 3 cuộc đảo chính ở Iraq. Việc giới quân sự nắm
chính quyền góp phần quyết định sự ổn định tình hình kinh tế-xã hội và loại bỏ
mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo.
Nhiều nguyên thủ quốc gia ở Bắc Phi và Trung Đông xuất thân là
sĩ quan chỉ huy cao cấp trong quân đội, như các cựu Tổng thống Ai Cập
Mohamed Naguib, Gamal Hussein, Anwar Al-Sadad và Hosni Mubarak, hay Tổng thống
Libya Muammar Gaddafi. Tổng thống Ai Cập hiện nay Abdel Fattah el-Sisi từng là
sĩ quan cấp tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và phần lớn quan chức các bang, bộ,
ngành đều từng là tướng lĩnh quân đội. Vì vậy, một điều dễ hiểu là quyền lực
thực sự của nhà nước thường tập trung trong tay các chỉ huy quân đội.
"Phi chính trị hóa" quân đội - sự nguy hiểm khi có chính
biến
Bạo loạn, lật đổ theo mô hình phản kháng phi bạo lực là cách mà
nhiều cuộc cách mạng màu đã sử dụng và nó đã được áp dụng triệt để trong
"Mùa xuân Arab". Trong đó, người dân được sử dụng như những chiến
binh trên chiến trường để loại bỏ chính thể một quốc gia sở tại theo học thuyết
chính trị “Phản kháng phi bạo lực” của chuyên gia bất bạo động người Mỹ Gene
Sharp. Trong "Mùa xuân Arab", người dân bị lợi dụng như “những chiến
sĩ cách mạng”, còn "vũ khí" là chiến tranh tâm lý và chiến tranh
thông tin.
òng xoáy chiến tranh diễn ra khắp khu vực sau Mùa xuân Arab. Ảnh: The New York Times. |
Tại Tunisia, quân đội gần như có truyền
thống không can dự vào chính sự quốc gia. Chính quyền Tổng thống Zine El
Abidine Ben Ali khi đó không chú trọng xây dựng quân đội như đối với cảnh
sát và lực lượng đặc nhiệm. Khi biểu tình bạo loạn xảy ra, tướng Rashid
Ammar-chỉ huy quân đội, chủ trương đáp ứng những thay đổi theo yêu cầu của “các
chiến sĩ cách mạng đường phố” hơn là bảo vệ chế độ cầm quyền của Tổng thống Ben
Ali. Do đó, khi chính biến xảy ra, Tổng thống Ben Ali đã phải bỏ chạy ra nước
ngoài. Một trong những nguyên nhân sâu xa là do ở quốc gia này, trong 3 thập
niên làm tổng thống (1957-1987), ông Habib Bourguiba đã cấm binh lính
không tham gia chính trị. Thậm chí, cấm binh lính tham gia đảng cầm quyền. Sau
đó, chính quyền của ông Ben Ali cũng chưa đầu tư nhiều cho xây dựng quân đội,
ngân sách đầu tư còn eo hẹp.
Ở Ai Cập trước đây, ban đầu quân đội thể hiện sự trung thành
mạnh mẽ và giữ vị thế trung lập trước các cuộc biểu tình trên quảng trường
Tahrir ở Cairo. Ngày 7-2-2011, trên Tạp chí Foreign Affairs, phóng viên Joshua
Stacher đã viết: “Trong suốt mười ngày qua, nhà nước Ai Cập vẫn chưa phải chứng
kiến sự sụp đổ của chế độ”. Nhưng về sau, quân đội đã không giữ được sự kiên
trung đó. Trên một số xe chiến đấu bộ binh và xe bọc thép xuất hiện khẩu hiệu “Quân
đội đứng về phía người biểu tình”. Trước sức ép của làn sóng biểu tình nhận
được sự ủng hộ của giới quân sự, Tổng thống Mubarak buộc phải tuyên bố từ chức
và trao quyền lãnh đạo đất nước cho Hội đồng quân sự tối cao.
Tư nhân hóa, dân sự hóa quân đội - cái giá phải trả
Đối với trường hợp Libya, cơ cấu của các lực lượng vũ trang nước
này khác hẳn với các quốc gia khác. Trong khi tiềm lực kinh tế rất mạnh nhưng
quân đội Libya chỉ với 50.000 người lại không được hiện đại hóa, trang bị lạc
hậu. Một trong những sai lầm của Tổng thống Gaddafi chính là chỉ ưu tiên đầu tư
cho các lực lượng tinh nhuệ và bán quân sự là người thân tín, họ hàng của mình,
thậm chí tuyển dụng lính đánh thuê ở nước ngoài. Quân đội đã thiếu sự gắn kết
và có dấu hiệu chia rẽ ngay từ đầu thời kỳ "Mùa xuân Arab" xảy ra.
Liên tiếp diễn ra các vụ đào tẩu của sĩ quan và binh lính. Chỉ khoảng một tuần
sau cuộc can thiệp quân sự của NATO, đã có 6.000 binh sĩ Libya (chiếm 12% quân
số) rời bỏ hàng ngũ, và con số này tăng lên 40.000 quân (80%) chỉ sau hai
tháng. Vì vậy, quân đội mất sức chiến đấu, không đủ sức chống đỡ các đợt tấn
công quân sự từ bên ngoài. Kết cục là Tổng thống Gaddafi bị sát hại, đất nước
rơi vào nội chiến, chia rẽ kéo dài, đến nay vẫn chưa thành lập được chính phủ
chuyển tiếp.
Ở Yemen, trên thực tế, quân đội bị phân chia thành nhiều đơn vị
riêng biệt dưới quyền chỉ huy của những người thân tín trong dòng họ của
cựu Tổng thống Ali Abdullah Saleh, những người cùng bộ lạc và thành phần
thân tín với ông. Những đơn vị này sẵn sàng sử dụng bạo lực để đàn áp người
biểu tình. Trong khi đó, một số sư đoàn và đơn vị quân đội thuộc các quân khu
nắm quyền lại chủ trương ủng hộ “những người biểu tình ôn hòa”. Chính vì vậy,
“Mùa xuân Arab” ở Yemen đã dẫn tới các hành động đổ máu. Trước sức ép dữ dội
của các cuộc biểu tình, Tổng thống Saleh buộc phải tuyên bố từ chức.
Vai trò của quân đội ở quốc gia ngăn chặn thành công "Mùa
xuân Arab"
Israel là một trong số rất ít quốc gia ngăn chặn thành công
"Mùa xuân Arab", tất nhiên không chỉ do xây dựng quân đội mà còn từ
nhiều vấn đề ngoại giao và chính sách khác, song TS Lê Đình Tĩnh, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược ngoại giao (Học viện Ngoại giao) phân tích:
Israel đã tư duy chiến lược theo hướng ngoại giao đi trước một bước, tạo thế
trận “phòng thủ từ xa” và có năng lực quốc phòng dựa trên công nghệ cao với sức
mạnh răn đe đáng kể từ bên trong.
Từ năm 1948 đến nay, Israel đã học tập mô hình huy động lực
lượng quốc phòng toàn dân với quân đội thường trực là xương sống và lực lượng
dự bị làm chủ lực. Năm 1959, Israel ban hành luật nghĩa vụ quân sự, chính thức
thực hiện thể chế quốc phòng "toàn dân làm lính, huy động nhanh
chóng". Israel đã xây dựng hơn 20 bộ luật liên quan đến công tác “toàn dân
làm lính, động viên toàn quốc”. Theo luật của Israel, 3 lần/năm, tất cả công
dân, ngoại trừ vì lý do tôn giáo và sức khỏe, không phân biệt giới tính, phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự ở độ tuổi 18. Sau khi tốt nghiệp trung học, trước
tiên họ phải phục vụ quân đội. Học thuyết an ninh quốc gia mới của Israel làm nổi
bật 4 nguyên tắc cơ bản: Chiến bại ắt diệt vong, phòng thủ tích cực, coi trọng
răn đe để tránh chiến tranh, đánh nhanh thắng nhanh...
Đó là những nền tảng hết sức quan trọng giúp nước này ngăn chặn
thành công "Mùa xuân Arab" từ những ngày đầu tiên. Theo nghiên cứu
“Israel và Mùa xuân Arab” của tác giả Benedetta Berti, Lực lượng Phòng vệ
Israel (IDF) có quan điểm thống nhất với Chính phủ Israel đối với tiến trình
“lây lan” của "Mùa xuân Arab" kể từ khi bùng phát tại Tunisia. Nhằm
chuẩn bị phản ứng tốt nhất, quân đội Israel đã phân tích các cuộc biểu tình ở
Tunisia và đặc biệt chú ý đến trường hợp của Ai Cập lúc đó để rút ra bài học
cho riêng mình. Quân đội Israel cũng chuẩn bị kế hoạch đối phó với khả năng xảy
ra như ở Lebanon và một số khu vực trên bán đảo Sinai khi một số nhóm lợi dụng
tình hình rối ren, hỗn loạn và mất an ninh trong nước để lập các cơ sở chống
đối hay xây dựng các đường dây buôn lậu vũ khí xuyên quốc gia, qua đó tiếp tay
cho lực lượng chống chính phủ.
Ngoài ra, IDF cũng yêu cầu chính phủ tăng ngân sách cho quân
đội, kéo dài tạm thời thời gian nghĩa vụ bắt buộc cũng như thành lập các đơn vị
phản ứng nhanh mới nhằm giúp lực lượng này luôn có đủ nhân lực và nguồn lực để
hỗ trợ chính phủ trong trường hợp xảy ra các vụ biểu tình thành bạo loạn. Hơn
hết, quân đội Israel cũng bắt đầu chú ý đến lĩnh vực không gian mạng sau khi
nhận thấy mạng xã hội hay internet có thể làm “điên đảo” tình hình chính trị
cũng như lôi kéo dư luận theo hướng bất lợi cho thể chế các nước láng giềng.
Chủ động đối phó với "chiến tranh phi quy ước"
"Mùa xuân Arab" còn cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của
"chiến tranh phi quy ước". Năm 1962, Tổng thống Mỹ J.Kennendy đã
nêu ra khái niệm “chiến tranh phi quy ước”, cho rằng “đây là một loại hình
chiến tranh lợi dụng triệt để các cuộc bạo loạn; mới về cường độ nhưng cũ về
nguồn gốc; một cuộc chiến tranh du kích, chống phá, nổi loạn...”. “Chiến tranh
phi quy ước” đã được vận dụng triệt để ở Trung Đông-Bắc Phi, thậm chí ghi rõ
trong “Điều lệnh Tác chiến phi quy ước” (ATP 3-05.1) xuất bản ngày 6-9-2013:
“Chiến tranh phi quy ước” là các hoạt động được tiến hành để thúc đẩy một phong
trào phản đối hay nổi dậy nhằm gây sức ép, làm tê liệt, lật đổ một chính phủ
hoặc thế lực cầm quyền thông qua hoặc phối hợp với các hoạt động của lực lượng
bí mật, lực lượng hỗ trợ và quân du kích. Loại hình chiến tranh này được cho là
rất hiệu quả, gắn kết với chiến lược “diễn biến hòa bình”, tạo ra kết hợp “diễn
biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ.
Tháng 5-2019, trình bày trước Quốc hội, Đại tướng Ngô Xuân Lịch,
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
cho biết: Từ thực tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, những năm
gần đây và dự báo chiến tranh trong tương lai, ngoài chiến tranh truyền thống
còn xuất hiện chiến tranh phi quy ước, chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông
tin, chiến tranh không gian mạng... Tiến hành “chiến tranh phi quy ước”, thế
lực thù địch sử dụng tổng hợp các biện pháp phi vũ trang và vũ trang, bằng các
hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ, thúc đẩy phong trào phản đối
hay nổi dậy của quần chúng bị lôi kéo, do lực lượng phản động bên trong tiến
hành, được sự hỗ trợ, can dự quân sự của lực lượng bên ngoài, nhằm gây hậu quả
nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng... tạo sức ép,
làm tê liệt, mất hiệu lực quản lý của Nhà nước, triệt tiêu vai trò lãnh đạo của
Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục có sự
phát triển mới về tư duy lý luận quốc phòng, quân sự cũng như có các chính sách,
giải pháp chiến lược để đối phó kịp thời, hiệu quả với “chiến tranh phi quy
ước”. Cần tiếp tục triển khai tích cực, hiệu quả Chiến lược quốc phòng, Chiến
lược quân sự Việt Nam với những tư duy mới về xác định các hình thái chiến
tranh, loại hình tác chiến, phương thức tác chiến chiến lược...
Khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương xây dựng Quân đội ta
Từ thực tế trên càng cho thấy những luận điệu kêu gọi "phi
chính trị hóa" đối với Quân đội ta là không phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Cần đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về
chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân
đội. Đó là chủ trương nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta xuyên suốt 76
năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội. Ở Việt Nam, bất luận
trong hoàn cảnh nào, lực lượng vũ trang cũng luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải là lực lượng
chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với Nhà nước và nhân
dân. Phải thực hiện hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như ứng
phó với các loại hình chiến tranh mới.
Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là dù có xây dựng quân đội chính
quy, hiện đại đến đâu cũng chưa đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc nếu không gắn với
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với xây
dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc; trong đó phải đặt lên hàng đầu xây
dựng "thế trận lòng dân". Đó chính là một trong những “cẩm nang” giữ
nước từ sớm, từ xa.
(còn nữa)
NGUYÊN MINH, NGỌC HƯNG, VĂN DUYÊN, VĂN HIẾU, NGỌC THẠCH
Báo QĐND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét