Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020

Kiên định bản lĩnh chính trị và nâng cao cảnh giác trước các luận điệu phản động của thế lực thù địch

 Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đến gần. Một trang sử mới của hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ thu hút sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân mà còn "hấp dẫn" cả những người/nhóm người nhân danh dân chủ, giả danh dân chủ, để nhân sự kiện này tăng cường các hoạt động chống phá, với các luận điệu/"thư ngỏ" nhằm xuyên tạc, bịa đặt, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, các đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng nói riêng.

Gần đây, thông qua các bài viết, trả lời phỏng vấn, "thư ngỏ" đăng trên mạng xã hội, youtube…, một số người như Phạm Trần, Trần Gia Phụng, S.T.T.D K’ Tien và cả Nguyễn Đình Cống, Nguyễn Quang A… thường hay dẫn/mượn ý lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, công tác nhân sự của Đảng, công tác phòng và đấu tranh chống tham nhũng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ để bao biện cho những suy nghĩ/hành động chống Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Kiểu các bài viết/trả lời phỏng vấn/"thư ngỏ" về các vấn đề này, liên quan đến nội dung này thường không mới, song hiểm họa từ những luận điệu phản động đó là khôn lường. Vì vậy, hơn bao giờ hết, kiên định bản lĩnh chính trị và nâng cao cảnh giác để nhận diện rõ âm mưu, chủ đích của những đối tượng này là rất quan trọng và cần thiết, là góp phần để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận rõ dã tâm phản động họ.

THỰC TIỄN LÀ CHÂN LÝ SOI ĐƯỜNG

Hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò độc quyền lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ; đưa dân tộc Việt Nam từ một nước bị Pháp, Nhật thống trị thành một nước tự do, độc lập; đồng thời, xây dựng và phát triển đất nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là điều không thể phủ nhận, vì thế, âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, đòi “đa nguyên, đa đảng” với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, dưới các chiêu bài khách quan để bảo vệ/bênh vực quyền lợi chính đáng của người dân, đòi dân chủ, đòi thực hiện xã hội dân sự, thành lập báo chí tư nhân… cũng đã bị nhận diện và chỉ ra.

Thực tế, những vấn đề cốt lõi trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam này không phải "là sai lầm và lạc hậu" của Đảng như thế lực thù địch nhận định mà đó chính là sự kiên định. Sự kiên định và bản lĩnh chính trị của một Đảng Mácxit Lêninnít do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.

Trong đó:

Một là, việc lựa chọn và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tiễn lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp sáng tạo giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay ở Hội nghị thành lập Đảng (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”[1] và quyết định “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2]...

Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc có hướng đích chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này cho thấy, mục tiêu định hướng tương lai: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Đảng và ngọn cờ đó đã khơi nguồn sức mạnh nội lực của toàn dân tộc, làm nên một cuộc đổi đời lịch sử đối với mỗi người dân Việt Nam, đối với dân tộc Việt Nam.

Đảng luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bởi đây chính là con đường duy nhất đúng để đất nước Việt Nam phát triển bền vững, phồn vinh và hạnh phúc, bởi “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[3]. Việc tiếp tục kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã góp phần quan trọng làm nên những thành tựu của đất nước Việt Nam trong gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế.

Điều này không chỉ được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh mà còn tiếp tục được thể hiện trong quan điểm chỉ đạo đầu tiên của dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Tư tưởng xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn tới là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cùng với thời gian, lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại cũng chứng minh rằng: Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là không thể phủ nhận và đó là "một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi"[4]. Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) (Cương lĩnh 2011) của Đảng đã ghi rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động"[5]. Đó chính là thấm nhuần nguyên tắc: “Chỉ đảng nào được lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong”[6]. Đồng thời cũng chính là sự lựa chọn/kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt hành trình xây dựng và phát triển chứ không phải là "bắt chước làm theo Trung Cộng" như Phạm Trần và nhóm người suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ấu trĩ suy nghĩ và viết.

Hai là, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo, đúng đắn, khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để trở thành "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Vì thế, từ bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, Đảng ta đã khẳng định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[7], trong đó xác định rõ việc kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời, nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển…

Đại hội XII của Đảng (2016) đã tiếp tục bổ sung và làm rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[8]. Bước đột phá khoa học về tư duy lý luận này của Đảng dựa trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường trong lịch sử và xuất phát từ bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội để khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  

CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG VÀ ĐẤU TRANH CHÔNG SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"

Những người nào - vì bất cứ lý do gì đã không chỉ giảm sút niềm tin vào lý tưởng cách mạng của người cộng sản, mơ hồ, mất cảnh giác mà còn thừa nhận/cổ súy cho các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Đảng, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ định quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… hòng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì cũng chính là những người đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Những đối tượng này dù ẩn danh hay chính danh, nấp dưới chiêu bài nào, dùng thủ đoạn gì thì cũng từng bước được nhận diện và chỉ rõ, vì đó là "những con sâu mọt" phá Đảng từ bên trong.

Việc chủ động phòng, chống và đấu tranh với các đối tượng này đòi hỏi các cấp ủy Đảng, cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân không chỉ phải kiên định bản lĩnh chính trị, nâng cao sức đề kháng; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về mặt tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng mà còn phải nâng cao cảnh giác trước những chiêu trò, thủ đoạn giả danh của họ nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng và cần thiết.

Cụ thể là:

Thứ nhất, cấp ủy các cấp và cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc yêu cầu, tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, kiên định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Trong mọi hoàn cảnh và mọi thời điểm, cần thấu triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước trên tinh thần giữ vững tính Đảng, tính chính trị, tính khoa học, nguyên tắc thống nhất giữ lý luận và thực tiễn trong đấu tranh về tư tưởng, lý luận của Đảng.

Chú trọng công tác tư tưởng; trong đó, tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Triển khai toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”trên cơ sở quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và phải nhận thức đúng, đầy đủ về mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt chỉ dẫn của V.I. Lênin: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”[9]. Đồng thời, tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng, trong hệ thống chính trị và xã hội.

Chủ động và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo để không chỉ đấu tranh phản bác có hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, với các hình thức đa dạng, phong phú nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng mà còn phải phòng ngừa, ngăn chặn và kịp thời nhận diện, vạch trần tính chất phản khoa học, phản động trong những quan điểm, tư tưởng sai trái của những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", những người nhân danh yêu nước, dân chủ hòng chống Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ ba, phát huy vai trò, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng làm công tác tư tưởng và sức mạnh tổng hợp của báo chí, truyền thông; kết hợp tuyên truyền miệng với các kênh thông tin khác và phát huy vai trò của internet, mạng xã hội, tạo thành thế trận nhiều tầng nấc, vững chắc để đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Trong đó, sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp gắn với việc phát huy khả năng, thế mạnh của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng trong tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và trong đấu tranh bảo về nền tảng tư tưởng của Đảng, chống chủ nghĩa cơ hội, chống sự suy thoái, bất mãn chính trị...

Khắc phục kiểu đấu tranh một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn gắn với chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động trên trận địa tư tưởng hiệu quả và thiết thực. Đồng thời, trong mọi tình huống phải chủ động và kịp thời ngăn chặn các hoạt động liên lạc, chắp nối của các đối tượng cơ hội, của các thế lực thù địch trên mạng xã hội để vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền, kích động biểu tình, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại nền tảng tư tưởng, tinh thần của nhân dân ta.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống chính trị gắn liền với việc nâng cao tính chủ động, thiết thực, hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", bất mãn về chính trị của các phần tử biến chất khi họ lợi dụng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội để kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

Tiếp tục thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thông qua nhiều kênh thông tin, nhiều diễn đàn để không chỉ lắng nghe và tiếp nhận ý kiến góp ý, xây dựng của nhân dân mà còn kịp thời thông tin, định hướng thông tin để nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng và chế độ của các thế lực thù địch. Cùng với đó, kịp thời nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, tình hình chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân để không chỉ uốn nắn những nhận thức lệch lạc mà còn góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng tiếp tục rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân gắn với việc thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm và các quy định về nêu gương. Nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, thực hành dân chủ trong Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân gắn với thường xuyên sàng lọc đội ngũ, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn, những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước ra khỏi Đảng.

Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trong việc nêu gương tự rèn luyện, tự bảo vệ mình trong sạch về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đồng thời, tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, của những người nhân danh dân chủ, yêu nước song thực chất đang có những biểu hiện, hành động chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và bôi đen, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cuối cùng, những cán bộ, đảng viên chân chính, cách mạng luôn một lòng vì nước, vì dân rất khác/khác biệt với những kẻ đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Vì thế, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã, đang, sẽ nhận ra đúng bản chất của người cách mạng - những người vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn để tin yêu, kính trọng và ủng hộ./.

Bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026

 Bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình bầu cử là một tất yếu nhằm lựa chọn được những người tiêu biểu, xứng đáng nhất, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo luật định, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng; có năng lực và có điều kiện thực thi nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; đồng thời, bảo đảm được cơ cấu đúng đắn, hợp lý nhất. Đó là căn cứ và cơ sở pháp lý để hình thành các cơ quan nhà nước trong nhiệm kỳ mới với chất lượng cao, tiền đề của hoạt động hiệu lực và hiệu quả.

Ngày 20-6-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW, “Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026”. Để cuộc bầu cử này đạt kết quả cao, Chỉ thị đã xác định 9 nhiệm vụ quan trọng mà các cấp ủy, tổ chức đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, trong đó, có một số nhiệm vụ trọng tâm cần phải thực hiện một cách tốt nhất, triệt để nhất.

Căn cứ pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng và thực tế các cuộc bầu cử trước đây

Những căn cứ pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động bầu cử đại biểu dân cử chủ yếu là các quy định của Hiến pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu hội đồng nhân dân (ĐBHĐND) (gọi tắt là Luật Bầu cử), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó, quy định của Hiến pháp là căn cứ quan trọng hàng đầu. Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Khi lãnh đạo Nhà nước thì Đảng ta phải lãnh đạo ngay từ việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (Khoản 1, Điều 2 của Hiến pháp). Việc hình thành bộ máy nhà nước mỗi khóa bao giờ cũng bắt đầu từ kết quả bầu cử đại biểu dân cử theo tinh thần nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đảng phải lãnh đạo thấu suốt cả quá trình bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (Điều 1, Luật Bầu cử) nhằm đạt tới mục đích cao nhất là bầu ra được những người xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân; xứng đáng là thành viên của “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nếu là ĐBQH và xứng đáng là thành viên của “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”; “đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương” nếu là ĐBHĐND.

Về thực tiễn, một trong 8 bài học kinh nghiệm quan trọng của cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và ĐBHĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 mà Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử của Hội đồng Bầu cử quốc gia số 695/BC-HĐBCQG, ngày 19-7-2016, đã chỉ ra là, sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đối với công tác chuẩn bị bầu cử là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cuộc bầu cử. Nơi nào có sự chuẩn bị chu đáo, sát sao, thống nhất; các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy được phổ biến, quán triệt đầy đủ, nơi đó, công tác bầu cử được triển khai kịp thời, phối hợp chặt chẽ, đạt kết quả cao. Kinh nghiệm này, một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là tối quan trọng, là yêu cầu tất yếu của một Đảng cầm quyền trong các cuộc bầu cử đại biểu dân cử.

Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình tổ chức bầu cử

Theo quy trình một cuộc bầu cử, từ khi công bố ngày bầu cử cho đến khi tổng kết cuộc bầu cử có thể chia ra hơn 40 công đoạn. Công đoạn nào cũng yêu cầu, cũng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo sát sao của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trong các cuộc bầu cử có thể chia làm hai dạng: Ở cấp cao, nhất là ở Trung ương, chủ yếu là lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối và cơ chế, chính sách; ở các cấp, nhất là ở cơ sở, như ban bầu cử, tổ bầu cử thì các thành viên vừa phải quán triệt chủ trương, đường lối, thấm nhuần chính sách, cơ chế, vừa phải tác nghiệp cụ thể trong công việc. Dưới đây là 4 công đoạn then chốt mà các cấp ủy phải tập trung lãnh đạo thường xuyên, liên tục, sát sao nhất.

1- Lãnh đạo dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử ĐBQH và ĐBHĐND.

Về số lượng đại biểu dân cử, Luật Bầu cử đã xác định cụ thể (ĐBQH là 500 người; ĐBHĐND các cấp được tính theo số dân và các yếu tố cụ thể của mỗi địa phương). Nhìn chung, số lượng đại biểu dân cử mỗi khóa không nhiều (ví dụ, kết quả bầu cử và được xác nhận đủ tư cách đại biểu nhiệm kỳ 2016 - 2021 chỉ là 321.886 đại biểu, gồm 494 ĐBQH và 321.392 ĐBHĐND các cấp; tỷ lệ đại biểu trên tổng số cử tri chỉ khoảng 0,44% và khoảng 0,33% so với tổng số dân ở thời điểm bầu cử). Trong khi đó, số cơ quan, tổ chức, đơn vị được phân bổ người ứng cử lại rất nhiều. Đối với ĐBQH, các đơn vị được phân bổ gồm: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương. Đối với ĐBHĐND cấp tỉnh, cấp huyện, còn thêm các đơn vị hành chính cấp dưới, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn. Đối với ĐBHĐND cấp xã, còn thêm thôn (làng, bản, ấp), tổ dân phố.

Với số lượng đại biểu dân cử rất hạn hẹp, trong khi trên thực tế các cơ quan, tổ chức, đơn vị để phân bổ lại rất nhiều thì việc phân bổ cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị nào, số lượng bao nhiêu, đòi hỏi một sự lãnh đạo rất cụ thể. Có ít nhất ba vấn đề phải được chú ý đặc biệt trong quá trình lãnh đạo:

Một là, tổ chức đảng ở Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ở thường trực hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp phải lãnh đạo để xác định chính xác những cơ quan, tổ chức, đơn vị cần được phân bổ người ứng cử và số lượng người được phân bổ cho mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây là một việc rất khó và cũng là một tồn tại qua nhiều lần bầu cử. Do đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ cho việc phân bổ, nhất là đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên).

Hai là, phải lãnh đạo việc nghiên cứu cơ cấu, thành phần hợp lý nhất để phân bổ người ứng cử, tránh tình trạng thừa cơ cấu, thiếu thành phần hoặc thành phần không hợp lý, dẫn đến sai lệch cơ cấu.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng để bảo đảm được các cơ cấu cơ bản, nhất là cơ cấu nữ và cơ cấu dân tộc. Về cơ cấu nữ, theo Luật Bầu cử, phải có ít nhất 35% số người được giới thiệu là nữ. Muốn vậy, phải giới thiệu ít nhất được 40% để nếu có bị loại vẫn bảo đảm con số 35%. Tuy nhiên, vấn đề là chất lượng người được giới thiệu làm ứng cử viên, vì vậy ngay từ đầu đã phải quan tâm thật đúng mức tới chất lượng người được giới thiệu ứng cử. Về số lượng và tỷ lệ đại biểu là người dân tộc thiểu số trong cơ quan dân cử. Đối với Quốc hội (mang tính toàn quốc), Luật Bầu cử quy định ít nhất là 18%, tỷ lệ này nhìn chung là đạt được. Tuy nhiên, cũng không thể chủ quan, lơ là trong lãnh đạo, chỉ đạo; ngược lại, phải hết sức chú ý lãnh đạo, chỉ đạo tìm người đủ tiêu chuẩn ở một số dân tộc mà nhiều khóa vừa qua chưa có ĐBQH; tìm người xứng đáng nhất trong các dân tộc có số dân đông hơn để giới thiệu. Đối với HĐND (mang tính chất địa phương; có tỉnh, có huyện, có xã không có người dân tộc thiểu số; những tỉnh, huyện, xã có người dân tộc thiểu số thì số lượng và tỷ lệ cũng rất khác nhau), Luật Bầu cử không quy định tỷ lệ chung. Bởi vậy, cấp ủy ở từng địa phương phải lãnh đạo sát sao, bám sát thực tế, chỉ đạo cụ thể để việc giới thiệu đạt được các tỷ lệ hợp lý, mang tính đại diện cao giữa các dân tộc trên từng địa bàn.

Công đoạn dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu dân cử là công đoạn nghiệp vụ đầu tiên. Nó phải mang đầy đủ tính đại diện đúng đắn, hợp lý của cơ quan dân cử. Công đoạn này sẽ chi phối tất cả các công đoạn tiếp theo. Nếu không bảo đảm tính hợp lý, chính xác ngay từ đầu sẽ gây khó khăn cho tất cả các công đoạn tiếp theo.

2- Lãnh đạo hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH, ĐBHĐND và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử (gọi tắt là Hội nghị hiệp thương).

Về lý thuyết, nếu ở công đoạn dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng mà được thực hiện tốt (chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phần hợp lý) thì sang công đoạn hiệp thương và các công đoạn tiếp theo sẽ “nhẹ nhàng”, đỡ vất vả hơn. Nhưng trên thực tế, các cuộc bầu cử gần đây cho thấy, công đoạn hiệp thương là khá phức tạp. Trong Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và ĐBHĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã nhận định: Một số cơ cấu, số lượng phân bổ đại biểu chưa được như định hướng, dự kiến ban đầu, nhất là tỷ lệ nữ, tỷ lệ người ngoài đảng; nhiều người do Trung ương giới thiệu không trúng cử ở một số tỉnh, thành phố... Việc đưa ra khỏi danh sách một số ứng cử viên tự ứng cử ĐBQH trong hiệp thương lần thứ ba mà được cử tri nơi cư trú, ở cơ quan tín nhiệm chưa hoàn toàn được dư luận đồng tình. Bài học này gián tiếp nói rằng, ở những nơi đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo có phần lơi lỏng, hạn chế.

Như đã trình bày, số lượng các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương cũng như ở địa phương là rất lớn, trong khi số lượng đại biểu dân cử lại không nhiều nên hiệp thương để chuẩn xác lại cơ cấu, thành phần cho thật hợp lý là công việc tất yếu, phải tiến hành nhiều lần (theo Luật Bầu cử là 3 lần).

Đối với hiệp thương giới thiệu người ứng cử ĐBQH, có mấy cơ cấu, thành phần đáng lưu ý:

Thứ nhất, cơ cấu số lượng và tỷ lệ giữa đại biểu ở Trung ương và đại biểu ở địa phương.

Ở nhiều khóa, thường là 1/3 đại biểu ở Trung ương và 2/3 là đại biểu ở địa phương. Tuy nhiên, đang có xu hướng tăng đại biểu ở Trung ương (từ khóa XI đến khóa XIV lần lượt là 30,92%; 31,03%; 33,4% và 36,04%), cũng có nghĩa là giảm số lượng và tỷ lệ đại biểu ở địa phương. Vì vậy, giữ ở mức 30% và 70% như nhiều khóa trước đây là hợp lý. Muốn vậy, phải thống nhất cao và có sự lãnh đạo sát sao, chỉ đạo cụ thể của Đảng đoàn Quốc hội, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cấp ủy, ngành, địa phương.

Thứ hai, cơ cấu đại biểu là nữ.

Đã có một số khóa, tỷ lệ đại biểu là nữ đạt trên 30% (khóa V có tới 32%). Những khóa sau này, tỷ lệ đại biểu là nữ chỉ đạt từ 18% đến hơn 27%. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân mà cuộc bầu cử tới đòi hỏi sự lãnh đạo quyết liệt của các cấp ủy để khắc phục tình trạng này. Trước hết, là nguyên nhân về tính đặc thù của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị có ít phụ nữ mà số người ứng cử lại tương đối nhiều, như trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thường trực các cơ quan của Quốc hội... Những cơ quan này không thể áp dụng tỷ lệ cao người ứng cử là nữ được. Ngược lại, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là ở địa phương có nhiều phụ nữ, nhưng trong thực hiện lại có thiên hướng cố gắng đạt tỷ lệ trung bình là được. Vì vậy, Đảng đoàn Quốc hội, Hội đồng Bầu cử quốc gia phải chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tính toán tỷ lệ nữ ứng cử ở từng loại cơ quan, tổ chức, đơn vị cho thật tương thích. Và trong chỉ đạo, phải kiên quyết giữ vững tỷ lệ đó. Hai là, mấy khóa gần đây trong cơ cấu không còn đại biểu là nông dân, công nhân - hai thành phần có tầm quan trọng nhiều mặt trong xã hội. Nhiều khóa trước, các đại biểu thuộc cơ cấu này chiếm tỷ lệ khá cao (khóa IV: công nhân chiếm 23,3%, nông dân chiếm 21,4%; khóa V: công nhân chiếm 22%, nông dân chiếm 21%; khóa VI: công nhân chiếm 16,2%, nông dân chiếm 20,3% ...). Riêng khóa IX thì lại đổi tỷ lệ đại biểu công nhân thành công nghiệp, nông dân thành nông nghiệp! Bốn khóa gần đây có tỷ lệ đại biểu của khối doanh nghiệp (có từ 3% đến 7%), nhưng trong đó, doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm phần đáng kể. Như vậy, trên thực tế, dần dần các ĐBQH hầu như đều là cán bộ, công chức nhà nước, mà trong cơ cấu cán bộ, công chức nhà nước, nhất là ở Trung ương, tỷ lệ nữ không cao. Cơ cấu của khối cử tri có tỷ lệ nữ không cao mà lại đặt yêu cầu nâng cao tỷ lệ nữ được giới thiệu ứng cử thì thật là khó, dù lãnh đạo, chỉ đạo cực tốt cũng rất khó khăn. Do đó, phải xác định cơ cấu, thành phần thật hợp lý ngay từ khi phân bổ và chuẩn xác lại trong ba lần hiệp thương. Trong đó có vấn đề lớn là cần xem xét để có đại biểu là những người lao động bình thường (công nhân, nông dân, lao động khu vực phi chính thức...) đại diện cho phần lớn nhân dân và cử tri cả nước.

Thứ ba, sự “cọ xát” căng thẳng về số lượng.

Tâm lý chung là, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương nào cũng mong muốn có số lượng người được giới thiệu ứng cử nhiều. Ở địa phương thì có “công thức” tính gồm 3 đại biểu “gốc” cộng số lượng đại biểu tăng thêm theo số dân, còn ở Trung ương thì “ngầm hiểu” là tầm quan trọng của mỗi loại cơ quan, tổ chức, đơn vị, mà “định tính” về tầm quan trọng thì khi thảo luận vô cùng căng thẳng, khó phân định. Chính đây là vấn đề đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cụ thể của tổ chức đảng trên cơ sở Hiến pháp và tính chất, hiệu quả hoạt động của mỗi lĩnh vực (trong Hiến pháp năm 2013: Điều 4 nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 6 nói về nhân dân, Điều 8 nói về Nhà nước, Điều 9 nói về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 10 nói về Công đoàn Việt Nam...).

Thứ tư, bám sát tiêu chuẩn đại biểu để “cọ xát” về chất lượng người được giới thiệu ứng cử.

Chất lượng (đức và tài) là vấn đề hàng đầu trong hoạt động của đại biểu. Bởi vậy, trong lãnh đạo giới thiệu người ứng cử đại biểu, ngoài việc nhận biết trình độ học vấn thể hiện qua cấp độ được đào tạo, nên kết hợp với việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi làm việc, địa bàn hoạt động, nơi cư trú để nắm bắt được tinh thần, thái độ công tác, kết quả công việc cụ thể, mức độ gắn kết với nhân dân, đạo đức, tư cách của người được giới thiệu ứng cử (hết sức tránh hình thức, ngợp về bằng cấp, cả tin vào những lời nói hoa mỹ... mà không biết rõ thực hư công việc, đạo đức, lối sống ra sao). Trong giai đoạn hiện nay, có vấn đề cần được quan tâm đặc biệt là, người được giới thiệu ứng cử phải là người không tham nhũng, không có liên quan đến tham nhũng và phải kiên quyết đấu tranh quyết liệt với tham nhũng.

Đối với hiệp thương giới thiệu người ứng cử ĐBHĐND các cấp:

Ngoài những vấn đề tương tự như giới thiệu người ứng cử ĐBQH thì cần lưu ý tới cơ cấu đại biểu là nữ ở HĐND cấp xã. Thực tế cho thấy, kết quả các cuộc bầu cử gần đây chưa bao giờ tỷ lệ đại biểu là nữ ở HĐND cấp xã đạt được định hướng, và bao giờ cũng thấp hơn tỷ lệ đại biểu là nữ ở HĐND cấp tỉnh và cấp huyện (nhiệm kỳ 2007 - 2011, cấp tỉnh là 23,9%, cấp huyện là 23,0%, cấp xã là 19,5%; nhiệm kỳ 2011 - 2016, cấp tỉnh là 25,2%, cấp huyện là 24,6%, cấp xã là 21,7%; nhiệm kỳ 2016 - 2021, cấp tỉnh là 26,7%, cấp huyện là 27,5%, cấp xã là 26,5%). Vì sao có tình hình này? Đó là vì việc vận dụng tiêu chuẩn. Bốn tiêu chuẩn ĐBHĐND là thống nhất, nhưng đối với ĐBHĐND cấp xã thì tiêu chuẩn thứ 3 “Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND”, đối với phụ nữ ở cấp xã nói chung và phụ nữ ở xã, bản miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là vô cùng khó khăn. Do trình độ học vấn thấp, trình độ chuyên môn cũng như kiến thức về khoa học - kỹ thuật yếu kém; một số nơi do tập tục, lối sống lạc hậu... nên phụ nữ khó có điều kiện tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, có một số chị em lại tự ti, không muốn tham gia hoạt động. Có lẽ các tổ chức đảng ở những địa bàn này phải căn cứ vào tình hình, điều kiện thực tế để lựa chọn, giới thiệu (theo phương pháp “so đũa”), chứ không thể rập khuôn theo khu vực đồng bằng hay khu vực thành phố, thị xã.

3- Lãnh đạo xây dựng các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương.

Theo Luật Bầu cử, các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương gồm:

Ủy ban bầu cử cấp tỉnh có từ 21 đến 31 thành viên; ủy ban bầu cử cấp huyện có từ 11 đến 15 thành viên; ủy ban bầu cử cấp xã có từ 9 đến 11 thành viên (gọi chung là ủy ban bầu cử).

Ban bầu cử ĐBQH có từ 9 đến 15 thành viên; ban bầu cử ĐBHĐND cấp tỉnh có từ 11 đến 13 thành viên; ban bầu cử ĐBHĐND cấp huyện có từ 9 đến 11 thành viên; ban bầu cử ĐBHĐND cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên (gọi chung là ban bầu cử).

Tổ bầu cử: Mỗi khu vực bỏ phiếu có một tổ bầu cử, có từ 11 đến 21 thành viên.

Số lượng các tổ chức bầu cử ở địa phương là rất lớn, các thành viên trong các tổ chức đó càng vô cùng lớn. Riêng các tổ chức cuộc bầu cử năm 2016 bao gồm: 63 ủy ban bầu cử cấp tỉnh, 712 ủy ban bầu cử cấp huyện, 11.162 ủy ban bầu cử cấp xã; 184 ban bầu cử ĐBQH, 1.096 ban bầu cử ĐBHĐND cấp tỉnh, 6.721 ban bầu cử ĐBHĐND cấp huyện, 79.988 ban bầu cử ĐBHĐND cấp xã và 90.800 tổ bầu cử. Việc lãnh đạo các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương phải chú ý ít nhất tới hai vấn đề:

Một là, phải bảo đảm các thành phần đúng như yêu cầu luật định, nhân sự (các thành viên) của các tổ chức phải bảo đảm yếu tố chính trị cao và có nghiệp vụ, hoặc đã từng làm tốt công tác bầu cử các khóa trước, đặc biệt là ở cấp xã, cấp huyện. Kinh nghiệm cho thấy, hai cuộc bầu cử vừa qua có một vài sai sót đều chủ yếu xảy ra ở cấp huyện hoặc cấp xã. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chung nhất là vì “lợi ích nhóm” và thiếu tinh thần trách nhiệm, cộng với trình độ, năng lực yếu kém. Bởi vậy, việc lựa chọn nhân sự, tăng cường quản lý và lãnh đạo tư tưởng chặt chẽ là vô cùng quan trọng và cấp thiết.

Hai là, sự lãnh đạo của các tổ chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, nhất là ở các ban, các tổ bầu cử, đảng viên vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có trọng trách tác nghiệp, nghiệp vụ cụ thể trong bầu cử, do đó tuyệt đối không bao giờ được xem nhẹ sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cụ thể. Cần nói thêm là, những thiếu sót, sơ suất như in sai phiếu bầu, viết sai họ, tên người ứng cử, phát thừa phiếu bầu... mà kiểm tra, giám sát không phát hiện ra sẽ dẫn đến hậu quả rất tai hại, phải tiêu hao lớn công sức, thời gian, tiền của để tổ chức bầu cử lại.

4- Lãnh đạo việc phân bổ người ứng cử về các địa phương và phân chia người ứng cử vào các đơn vị bầu cử.

Về giới thiệu người ứng cử về các địa phương: Việc giới thiệu người ứng cử ĐBQH về các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giới thiệu người ứng cử ĐBHĐND cấp tỉnh về các huyện, quận, thị xã, trong lãnh đạo phải chú ý cả hai mặt là đặc điểm kinh tế, xã hội của địa phương và sự tương thích ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động của người được giới thiệu. Các cuộc bầu cử trước, có người được Trung ương giới thiệu về địa phương ứng cử ĐBQH nhưng không trúng cử; ở HĐND cấp tỉnh cũng có một số nơi có tình trạng tương tự. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân là lĩnh vực hoạt động của người ứng cử không phù hợp với địa phương nơi ứng cử. Có cử tri ở vùng đồng bằng sông Cửu Long từng phát biểu: Ai giúp bà con chúng tôi tiêu thụ hết lúa gạo, cá, tôm, nông sản với giá phải chăng thì chúng tôi giơ cả hai tay bầu ngay; còn lúc này, thơ phú, tuồng chèo, khảo cổ... chúng tôi chưa cần. Đây cũng là một kinh nghiệm trong lãnh đạo và trong tham mưu phân bổ người ứng cử theo địa bàn. Mặt khác, cũng phải khắc phục tình trạng, một số địa phương luôn luôn muốn chọn những người ứng cử có chức sắc càng cao càng tốt, những người ứng cử là thành viên Chính phủ, những người đứng đầu ngành, lĩnh vực.

Về phân chia (sắp xếp) người ứng cử vào đơn vị bầu cử: Luật Bầu cử chưa quy định cụ thể, chi tiết việc phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử nên có hai chi tiết đáng quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo.

Thứ nhất, có một số địa phương lo ngại trách nhiệm để người ứng cử có chức sắc cao của địa phương hoặc do Trung ương giới thiệu mà bị “trượt” nên đã bố trí những người ứng cử khác trong danh sách bầu có trình độ và vị thế cách biệt, thấp xa. Họ “biện lý” rằng, tất cả đều đủ tiêu chuẩn nên cử tri tín nhiệm ai thì bầu! Thực ra, đây là một ví dụ điển hình của tình trạng mà dân gian gọi là “quân xanh, quân đỏ”. Bởi vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo, phải cố gắng khắc phục tối đa tình trạng này.

Thứ hai, thực tiễn cho thấy, cũng là người ứng cử đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBQH, hoặc ĐBHĐND, nếu sắp xếp vào đơn vị bầu cử này thì có thể không trúng cử, nhưng sắp xếp vào đơn vị bầu cử khác thì lại có thể đắc cử. Điều này đòi hỏi khi phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử phải hết sức công bằng, công minh, khách quan, trung thực, mà mục đích đạt đến là bảo đảm được các cơ cấu định hướng ở mức tốt nhất... Muốn vậy, cần chỉ đạo nghiên cứu định ra những tiêu chí cần thiết làm căn cứ cho việc phân chia, sắp xếp. Các tiêu chí đó có thể là: có trình độ tương đương, có vị thế (chức danh) tương đương, có nam, có nữ, khác đơn vị công tác... Như vậy, việc trúng cử hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào chương trình hành động và khả năng vận động bầu cử của người ứng cử./.

Nhận diện về “Giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá”

 Nhằm thực hiện mục tiêu chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch luôn có xu hướng móc nối và thông qua số “chân rết” ở trong nước trực tiếp tiến hành các hoạt động gây phương hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Đồng thời, để cổ xúy cho số chống đối trong nước tích cực hoạt động, ngoài nguồn kinh phí hậu thuẫn thường xuyên, các thế lực thù địch còn thông qua các hình thức trao “giải thưởng” với kinh phí không hề nhỏ, có sự lựa chọn để động viên cho những “con rối” có "thành tích" chống phá Việt Nam.

Đến hẹn lại lên, trên một số diễn đàn, những thành viên của tổ chức khủng bố Việt Tân kêu gọi bầu chọn chủ nhân cho “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá”. Theo sự rêu rao của các đối tượng, “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá 2020” sẽ được dành trao cho những người tại quốc nội đang "trực diện bất chấp hiểm nguy, đòi hỏi dân chủ, công lý và độc lập thật sự cho Việt Nam". Giải thưởng này được các đối tượng rêu rao là do người Việt vinh danh người Việt.

Bản chất của “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá”

Nghe tên giải thưởng trên, dư luận đặt dấu hỏi rằng Trần Văn Bá là ai, có công trạng gì mà được suy tôn như một "biểu tượng" để đặt tên cho giải thưởng của cái gọi là “cuộc đấu tranh đòi dân chủ, công lý và độc lập cho Việt Nam”?

Qua tìm hiểu được biết: Trần Văn Bá (sinh 14/5/1945 tại Sa Đéc) là một trong những đối tượng thuộc tổ chức phản động của cái gọi là “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” được thành lập ngày 17/2/1976 tại Paris do Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh cầm đầu. Đây là tổ chức phản cách mạng hoạt động dưới sự hậu thuẫn của cơ quan tình báo một số nước.

Trần Văn Bá chính là người đã cùng các đối tượng như Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh tổ chức đưa biệt kích cùng khối lượng lớn vũ khí và tiền giả vào Việt Nam với kế hoạch lật đổ chính quyền nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trần Văn Bá bị lực lượng công an bắt giữ trong Kế hoạch CM-12 khi đang xâm nhập vào Việt Nam bằng đường biển và bị tòa án Việt Nam kết án tử hình năm 1985 vì tội phản quốc.

Với lý lịch như vậy, rõ ràng “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá” hiện rõ bản chất của một thứ giải thưởng chống phá đất nước. Tổ chức khủng bố Việt Tân đã cố tình xây dựng hình tượng một kẻ phản quốc làm hình mẫu để cổ vũ, xúi giục, khích lệ các đối tượng trong nước noi theo. Giải thưởng này được trao hàng năm như một món quà mang tính “ban ơn” khuyến khích dành cho những kẻ có thành tích chống phá đất nước, phục vụ cho toan tính phản quốc của chúng.

Những ai được nhận “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá”?

Theo danh sánh đề cử của tổ chức khủng bố Việt Tân, năm 2020 có 5 ứng viên được xướng danh bao gồm các đối tượng: Huỳnh Thị Tố Nga, Huỳnh Minh Tâm, Lưu Văn Vịnh, Ngô Văn Dũng, Nguyễn Đình Thành, Nguyễn Năng Tĩnh. Tất cả các đối tượng này đều là số “chân rết” của Việt Tân, hoạt động chống phá quyết liệt, hiện nay đều đã bị bắt, xử lý trước pháp luật. Theo thông tin từ fanpage “tinh thần Trần Văn Bá”, đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh đã vượt qua 4 ứng viên “nặng ký” và đã trở thành chủ nhân của giải thưởng nêu trên.

Trước đó, tại Nghệ An, TAND cấp cao đã tuyên phạt Nguyễn Năng Tĩnh 11 năm tù; phạt quản chế bị cáo 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù với hành vi phạm tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” quy định tại Khoản 1, Điều 117, Bộ luật Hình sự.

Theo cáo trạng, Nguyễn Năng Tĩnh thông qua trang Facebook cá nhân đã viết nhiều bài có nội dung xuyên tạc bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc; phỉ báng chính quyền nhân dân, xuyên tạc lịch sử, chế độ XHCN.

Những toan tính đằng sau “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá”

Thực tế cho thấy, những loại giải thưởng dạng trên được số đối tượng trong tổ chức khủng bố Việt Tân lập ra vô số ở hải ngoại, nhằm "truyền lửa" cho số đồng bọn trong nước đã bị bắt, xử lý bằng hình sự và giải thưởng này cũng phần nào để động viên, an ủi thân nhân các đối tượng. Qua đây cho thấy sự "thâm ý" của các thế lực phản động khi thông qua hình thức trao “giải thưởng” để khuếch trương thanh thế, tạo chỗ dựa cho các đối tượng chống đối, đồng thời đây cũng là thủ đoạn để chúng hợp thức hóa việc hỗ trợ về vật chất cho các đối tượng chống đối trong nước qua các phần thưởng có giá trị tài chính lớn.

Qua đây có thể thấy, vì ta đã làm tốt công tác phòng ngừa nên các thế lực thù địch không thể trực tiếp xâm nhập về nước tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam mà phải thông qua số cơ sở nội địa ở trong nước và ngược lại, các đối tượng chống đối ở nội địa cũng luôn trông ngóng các nguồn tài trợ từ bên ngoài để duy trì hoạt động. Do vậy, các loại “giải thưởng” này được xem là “nguồn sữa nuôi dưỡng” cho các âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam. 

Hiện nay, không ít hội nhóm chống đối trong và ngoài nước đã được lập ra với mục đích tấn công, chống phá chế độ XHCN cũng như chống Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn tồn tại, muốn có kinh phí tự nuôi sống bản thân và triển khai các hoạt động chống phá, các tổ chức này phải sống “dựa hơi” vào nhiều thế lực khác. Đồng thời, các hội nhóm giả danh “dân chủ” cũng phải cạnh tranh với nhiều tổ chức phản động, chống đối khác để tranh giành địa bàn hoạt động và các lợi ích vật chất. Do đó, Việt Tân tiến hành trao “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá” không chỉ là cách để hỗ trợ cho các đối tượng chống đối trong nước mà đồng thời để đánh bóng bản thân, từ đó tranh thủ các nguồn viện trợ.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, việc trao giải thưởng chỉ là một vở kịch để khuếch trương tên tuổi cho các “nhà dân chủ” giả hiệu. Bởi lẽ, các phần tử chống đối Đảng, Nhà nước chỉ là phần thiểu số trong xã hội, nhưng để tăng cường “uy tín”, phục vụ cho việc tập hợp lực lượng, các đối tượng chống đối trong nước luôn tìm cách móc ngoặc, hợp tác với các phần tử phản động lưu vong ở bên ngoài.

Ngược lại, các đối tượng bên ngoài cũng hỗ trợ tích cực về mặt vật chất, tinh thần cho các đối tượng trong nước. Trong đó, việc trao giải thưởng là một cách thức được lựa chọn nhằm khuếch trương hình ảnh và đánh bóng tên tuổi cho các đối tượng.

Chắc chắn, trong thời gian tới, để tiếp tục dung dưỡng, lên dây cót cho các phần tử chống phá Việt Nam, “giải thưởng tinh thần Trần Văn Bá” vẫn là chủ đề luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của những phần tử chống phá đất nước. Do đó, mỗi người dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác để nhận diện bản chất của các giải thưởng quốc tế của một số tổ chức thù địch.

Thủ đoạn xuyên tạc công tác bầu cử trong Đảng

          Nhận diện luận điệu xuyên tạc

Đại hội Đảng các cấp, Đại hội lần thứ XIII của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, sâu sắc; qua đó tổ chức đảng từ cơ sở đến Trung ương đánh giá kết quả lãnh đạo trong nhiệm kỳ, đề ra chủ trương, đường lối, nghị quyết lãnh đạo mọi mặt cho nhiệm kỳ, thời gian tiếp theo...

Lợi dụng thời điểm này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động tung ra các luận điệu xuyên tạc, sai trái hòng thực hiện mục tiêu “diễn biến hoà bình” đối với cách mạng Việt Nam.

Các đối tượng tập trung chống phá, hạ thấp vai trò, ý nghĩa của đại hội đảng các cấp, Đại hội XIII của Đảng; tấn công, xuyên tạc công tác cán bộ, công tác bầu cử trong Đảng. Một số trung tâm truyền thông lớn “hà hơi, tiếp sức” tổ chức các chương trình “Hội luận”, “Hội nghị bàn tròn”… tập hợp các phần tử phản động, “trí thức bất mãn”, các nhà “dân chủ cuội” bàn luận, tuyên truyền xuyên tạc công tác bầu cử trong Đảng ở Việt Nam. Các tổ chức phản động cũng thừa cơ tung lên, dẫn lại bài viết, tuyên truyền, tung tin giả, thất thiệt.

Đài BBC tổ chức cái gọi là “Hội nghị bàn tròn” tập hợp nhiều đối tượng vốn có tư tưởng bất mãn, thậm chí có đối tượng thể hiện quan điểm, hành động thù địch với thể chế chính trị ở Việt Nam để xuyên tạc công tác bầu cử trong Đảng.

Họ dẫn kết quả bầu cử một vài Bí thư Tỉnh uỷ có số phiếu bầu với mức tín nhiệm 100%, cho rằng: “Tổ chức bầu cử hình thức để làm gì cho tốn thời gian và tiền bạc”, rồi “Nhìn vào dàn nhân sự mà Bộ Chính trị đã duyệt vào các chức vụ Bí thư tỉnh, Chủ tịch tỉnh và các bộ, ban, ngành ở Trung ương, thì không trông chờ gì ở Đại hội XIII”.

Hay “Đảng Cộng sản Việt Nam sợ hãi tranh cử trong Đảng. Quản trị quốc gia mà không có tranh cử công khai thì không chọn được người tài. Không có tranh cử công khai là kìm hãm sự phát triển của đất nước”. Liên hệ cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vừa qua, các đối tượng này cũng xuyên tạc “Bầu cử tổng thống Mỹ giúp bổ túc kiến thức chính trị dân chủ cho Việt Nam” để xuyên tạc công tác bầu cử ở Việt Nam và bầu cử trong Đảng là không dân chủ, công tác nhân sự được áp đặt từ trên xuống dưới.

Trên trang mạng của nhiều tổ chức phản động lưu vong ra sức suy diễn, xuyên tạc công tác nhân sự, bầu cử trong Đảng theo kiểu là thủ tục để “hợp lý hoá” hình thức tranh giành quyền lực, phân chia quyền lực trong hệ thống chính trị, trong Đảng.

Tổ chức khủng bố Việt Tân xuyên tạc: “Đúng là một màn trình diễn tuyệt vời của vở kịch “mị dân” do Đảng Cộng sản Việt Nam dựng lên mà thôi. Bầu cử kiểu Việt Nam là kiểu bầu cử dân chủ cuội, bịp bợm, dối trá, gian lận. Ai ai cũng biết...”? Có thể thấy, đằng sau “dòng chảy” tuyên truyền này, thực chất là những luận điệu suy diễn, xuyên tạc với mục đích hạ thấp, tầm thường, phủ định công tác cán bộ, công tác lựa chọn cán bộ thông qua ứng cử, đề cử, bầu cử trong Đảng.

Công tác bầu cử, lựa chọn cán bộ trong Đảng là dân chủ, khách quan

Trái ngược với luận điệu suy diễn, xuyên tạc trên, Hội nghị cán bộ toàn quốc Tổng kết công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 – 2025 đánh giá: Trong bối cảnh tình hình chung trên thế giới, khu vực và của nước ta trong năm 2020 và đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thiên tai, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và bão, lũ ở miền Trung, nhưng với quyết tâm chính trị rất cao, nỗ lực rất lớn, hành động quyết liệt, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã chuẩn bị và tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp theo đúng tiến độ, kế hoạch, mục đích, yêu cầu đề ra; bảo đảm tuyệt đối an toàn, tiết kiệm và để lại nhiều dấu ấn, tình cảm sâu sắc, tốt đẹp trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9/6/2014 của BCH Trung ương Đảng quy định quy chế bầu cử trong Đảng, chỉ rõ: “Bầu cử trong Đảng thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ; bình đẳng, trực tiếp, đa số quá bán. Kết quả bầu cử từ chi bộ đến đảng bộ trực thuộc Trung ương phải được chuẩn y của cấp uỷ có thẩm quyền theo quy định” (Điều 2). Hay Luật số 85/2015/QH13, ngày 25/6/2015 của Quốc hội quy định nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (Điều 1).

Mặt khác, các đảng viên của Đảng đều có quyền ứng cử, đề cử vào các cơ quan lãnh đạo theo quy định của Đảng, hay công dân có quyền ứng cử, bầu cử vào cơ quan nhà nước theo luật định. Với quy định chặt chẽ dựa trên nguyên tắc cụ thể, rõ ràng như vậy thì bầu cử ở Việt Nam và bầu cử trong Đảng, đảm bảo thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của đa số để lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Bên cạnh đó, trong đại hội đảng các cấp, đại biểu dân chủ trong thảo luận, giới thiệu nhân sự tại đại hội được quy định rõ tại Điều 12, khoản 3, Điều lệ Đảng: “Đại biểu có quyền nhận xét, chất vấn về người ứng cử và người được đề cử”. Rồi bầu cử có số dư cũng là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện dân chủ trong bầu cử. Cung cấp danh sách trích ngang của các ứng cử viên để đại biểu nghiên cứu trước là việc làm thiết thực, để thực hiện bầu cử có hiệu quả chất lượng nhất… Với những quy định như vậy thì không thể suy diễn, xuyên tạc công tác bầu cử trong Đảng là không dân chủ, “xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội” như họ rêu rao, suy diễn, xuyên tạc.

Cũng cần nói thêm, không thể lấy bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ để liên hệ, làm tiêu chuẩn, từ đó suy diễn, hạ thấp quy trình bầu cử, lựa chọn cán bộ ở Việt Nam. Mọi sự so sánh đều là khập khiễng. Mỗi nước có đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau, có quy trình, quy định riêng. Không có mô hình chung là chìa khoá vạn năng để áp dụng cho mọi quốc gia, dân tộc trong điều kiện thể chế chính trị, mô hình nhà nước khác nhau.

Bên cạnh đó, ngay bản thân nhiều chính trị gia, học giả Hoa Kỳ cũng cho rằng mô hình bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ cũng còn tồn tại nhiều tranh cãi, chưa hẳn là hoàn hảo như người ta tưởng. Những tranh chấp pháp lý, cáo buộc gian lận kết quả bầu cử vừa qua, đến nay vẫn chưa có hồi kết là một minh chứng sinh động cho nhận định trên.

Thủ đoạn diễn biến, chống phá

Chống phá công tác cán bộ của Đảng nói chung và hoạt động bầu cử trong Đảng nói riêng, mưu đồ của các đối tượng là gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Họ ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc giới thiệu nhận sự, công tác bầu cử để xuyên tạc là “sắp xếp”, “thanh trừng”, “mất dân chủ”, “bè cánh”, là “chuẩn bị ghế nhân sự” cho Đại hội Đảng...

Không những thế, họ cũng thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, dao động, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự...; hạ bệ niềm tin, uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng.

Công cụ được họ triệt để lợi dụng là truyền thông hải ngoại, mạng xã hội để lan truyền trên không gian mạng. Họ “giật tít - câu khách” kính thích, đánh vào sự tò mò của nhiều người, từ đó đưa ra phân tích nhận định, thông tin lệch lạc, hòng tạo nhận thức sai trái công tác cán bộ, nhân sự là có sự “an bài”, “sắp xếp”, “thỏa hiệp”; cuối cùng là rêu rao, xuyên tạc bầu cử trong Đảng, chế độ là mất dân chủ, độc đảng, độc đoán, chuyên quyền, toàn trị. Ngoài ra, họ còn xuyên tạc, nói xấu, vu cáo, rêu rao, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước. Họ thường phát tán các thông tin, hình ảnh, clip giả tạo, sai lệch, biến không thành có, thật giả lẫn lộn, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội.

Thực tế cho thấy, công tác lựa chọn nhân sự, cán bộ, bầu cử của Đảng được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ, công phu, tỉ mỉ, trách nhiệm, được thực hiện trên nguyên tắc vốn là sức mạnh, tiến bộ của chế độ, phát huy được nguyện vọng, ý chí tập thể là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Kết quả công tác nhân sự, bầu cử tại đại hội các cấp, tiến tới Đại hội XIII vừa qua của Đảng diễn ra tốt đẹp, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Công tác nhân sự đại hội có nhiều đổi mới, đã phát huy dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình, quy định, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Nhân sự được chuẩn bị kỹ lưỡng ở tất cả các khâu, góp phần nâng cao chất lượng nhân sự cấp ủy các cấp và chuẩn bị cho nhân sự Trung ương”. Thực tế đó là minh chứng sinh động phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái nói trên.

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Những “con sâu” khoác áo cán bộ

Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Phú Yên vừa kết thúc điều tra 3 vụ án tham nhũng với hơn 20 đối tượng. Trong số này có những người dù mới chỉ là cán bộ xã nhưng đã nghĩ ra đủ cách bòn rút tài sản công, cố ý làm trái để trục lợi…

Tiêu tiền công như tiền nhà

Giữa năm 2020, từ thông tin tố giác của nhân dân về việc có dấu hiệu tham ô tài sản xảy ra tại xã Phước Tân, huyện Sơn Hòa, Công an tỉnh Phú Yên đã lập tổ công tác điều tra. Ngày 10-10-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tống đạt quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Số Bá Dựng - Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND và Phan Trường Giang, nguyên Kế toán trưởng UBND xã Phước Tân, huyện Sơn Hòa để điều tra về hành vi "Tham ô tài sản".

Ông Lê Tấn Thảo – nguyên Phó chủ tịch UBND thị xã Đông Hòa.

Chuyện bắt đầu từ tháng 7-2018, hai doanh nghiệp khai thác cây keo trên địa bàn đã ủng hộ xã Phước Tân 30 triệu đồng. Ngay sau khi nhận tiền, ông Dựng chỉ đưa cho Thủ quỹ 15 triệu đồng, số tiền còn lại đem cất tiêu xài riêng, nhưng khi thủ quỹ biết và đòi lại thì ông Dựng trả lời rằng đã mang ủng hộ người nghèo sửa chữa nhà. Tháng 6-2019, hai doanh nghiệp này tiếp tục nộp 250 triệu đồng ký quỹ để sau khi khai thác xong cây keo thì sẽ đưa vào sửa chữa đường do xe vận chuyển gây hư hỏng.

Là những người có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng ngay sau khi nhận được tiền, ông Dựng đã lấy 150 triệu đồng để trả nợ khoản vay của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 100 triệu đồng còn lại, ông Dựng đưa cho Giang để ký quỹ, nhưng chỉ nộp cho Thủ quỹ 63,5 triệu đồng, 36,5 triệu đồng Giang giữ lại với lý do trước đó đã chi phí nhiều khoản theo chỉ đạo của ông Dựng.

Cũng trong tháng 6-2018, Giang trình cho ông Dựng, khi đó là Trưởng ban Quản lý công trình đầu tư xây dựng cơ bản xã Phước Tân, chủ tài khoản ký vào 6 tờ séc chưa ghi nội dung (do Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Sơn Hòa phát hành) để chuyển tiền bảo hành công trình (5%) của các công trình thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn xã Phước Tân. Ngày 16-7-2018, Giang tự ý ghi và rút số tiền 50 triệu đồng rồi mang đưa ông Dựng 20 triệu đồng, còn lại 30 triệu đồng Giang viện lý do mượn để lo chữa bệnh cho con, nhưng thực chất là tiêu xài cá nhân.

Tiếp đó, trong hai tháng 7- 8/2020, Giang tiếp tục dùng séc ông Dựng đã ký rút tổng cộng 100 triệu đồng chi tiêu cá nhân nhưng không báo cho ông Dựng biết. Khi ông Dựng hỏi thì Giang nói đã rút tiền và mượn chữa bệnh cho con, ông Giang nói sau khi làm "sổ đỏ" nhà ở xong sẽ thế chấp vay tiền Ngân hàng trả lại cho các công ty xây dựng… Tính đến thời điểm bị bắt, ông Số Bá Dựng và Phan Trường Giang đã tham ô 405 triệu đồng, trong đó phần của ông Dựng là 176,5 triệu đồng và ông Giang là 228,5 triệu đồng.

Trước đó, vào tháng 6-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Huỳnh Lưu, Huỳnh Quốc Trí (nguyên Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND phường Phú Đông, TP Tuy Hòa); Lê Trung Hậu, Biện Khắc Dũng, Nguyễn Thành Đạt (cán bộ địa chính phường Phú Đông) và Huỳnh Quốc Việt (nhân viên Văn phòng đăng ký đất đai TP Tuy Hòa) lên để phục vụ công tác điều tra.

Thực hiện lệnh bắt và khám xét nơi ở đối với ông Phan Văn Xáo.


Năm 1992, vợ chồng ông Huỳnh Lưu, ngụ khu phố 2, phường Phú Đông vào khu vực phía bắc chợ Hầm Nước chiếm một khu đất rộng 457m2 do Nhà nước quản lý. Đến năm 2010, khi thực hiện dự án Khu kinh tế Nam Phú Yên, Xí nghiệp trắc địa bản đồ 201 tiến hành đo đạc hiện trạng các thửa đất và thông báo cho các hộ dân đang sử dụng hợp pháp các khu đất nếu có nhu cầu thì đến văn phòng địa chính đăng ký làm giấy CNQSDĐ.

Mặc dù biết thửa đất mình chiếm dụng trước đó là do Nhà nước quản lý, nhưng vợ chồng ông Lưu vẫn đứng tên kê khai là đất khai hoang và canh tác từ trước những năm 1990. Để phù phép thành đất của mình, ngay sau đó, ông Lưu đã chỉ đạo cho cấp dưới là Huỳnh Quốc Trí (nguyên Phó chủ tịch UBND phường Phú Đông); Lê Trung Hậu, Biện Khắc Dũng, Nguyễn Thành Đạt đều là cán bộ địa chính xã làm giả các loại thủ tục, giấy tờ liên quan rồi móc nối với Huỳnh Quốc Việt - nhân viên Văn phòng đăng ký đất đai TP Tuy Hòa làm giấy CNQSDĐ mang tên vợ mình là bà Nguyễn Thị Ngọc.

Cán bộ cố tình làm trái để trục lợi

Tháng 9-2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Phú Yên đã kết thúc điều tra vụ án "Vi phạm các quy định về quản lý đất đai", "Lợi dụng chức vụ quyền hạn" và "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" xảy ra tại thị xã Đông Hòa. Trong vụ án này, cơ quan điều tra đã khởi tố tới 17 bị can nguyên là Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND các phường Hiệp Hòa, Hiệp Hòa Trung, Hòa Hiệp Nam; Phó văn phòng đăng ký đất đai thị xã Đông Hòa, Trưởng phòng Đo đạc bản đồ thuộc Chi cục Quản lý đất đai - Sở NN&PTNT tỉnh Phú Yên cùng một số cán bộ địa chính và Văn phòng đăng ký đất đai, Phòng Tài nguyên môi trường. Đặc biệt còn khởi tố các ông Lê Tấn Thảo, Lưu Bá Hạnh - nguyên Phó chủ tịch UBND thị xã Đông Hòa về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng".

Trong các năm 2017, 2018, 2019, từ tin đồn về việc thành lập Đặc khu kinh tế Vân Phong nên một số người dân có điều kiện kinh tế từ các tỉnh phía Bắc đổ vào thị xã Đông Hòa tìm mua đất ven biển để sau này bán lại cho các doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh ngành du lịch. Biết đây hoàn toàn là đất nông nghiệp nên các vị khách mua tìm cách móc nối với một số cán bộ chính quyền cấp phường, thị xã và một số ngành chuyên môn cấp tỉnh làm giả hồ sơ giấy tờ để cấp 8 giấy CNQSDĐ và chuyển mục đích sử dụng trái pháp luật 1.156 hồ sơ đất khác.

Một số cá nhân là cấp dưới của ông Xáo và ông Thảo tại cơ quan Công an.

Ông Phan Văn Xáo, Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Đông Hòa, được giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các mặt công tác của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Đông Hòa, trong đó có nhiệm vụ giải quyết hồ sơ đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn thị xã Đông Hòa theo trình tự pháp luật.

Nhưng thực tế khi giải quyết 5 hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phạm Hoàng Huynh, bà Huỳnh Thị Min, ông Trần Minh Lưu, ông Bùi Quang Khải và ông Tống Văn Hoàng, ông Xáo đã chỉ đạo nhân viên bỏ qua quy trình, không thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra hồ sơ về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất huyện Đông Hòa đã được UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt.

Khi cấp dưới trình hồ sơ để ông Xáo xem xét ký xác nhận, mặc dù hồ sơ còn nhiều mâu thuẫn, không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận, nhưng ông Xáo vẫn thống nhất, đồng ý ký xác nhận đủ điều kiện vào Đơn đăng ký rồi chuyển hồ sơ đến Phòng Tài nguyên và Môi trường, trình UBND thị xã Đông Hòa ký cấp Giấy CNQSDĐ trái quy định pháp luật, tạo điều kiện cho 5 hộ gia đình, cá nhân nói trên được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái với quy định.

Cũng trong thời gian này, ông Xáo còn bắt tay với Nguyễn Bửu, Chủ tịch UBND phường Hiệp Hòa; Văn Phú Trình và Nguyễn Văn Đan, Phó chủ tịch UBND phường Hiệp Hòa Trung; Trần Hùng, Phó chủ tịch UBND phường Hiệp Hòa Nam; Nguyễn Văn Tiên, Trưởng phòng Tài nguyên môi trường thị xã Đông Hòa; Phạm Hoàng Huynh, Trưởng phòng đo đạc bản đồ và viễn thám thuộc Sở NN&PTNT và một số cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai, địa chính, tài nguyên môi trường cấp phường, thị xã làm giả hồ sơ chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp thành đất ở nông thôn, đất phi nông nghiệp và đất ở đô thị đối với 1.156 hồ sơ khác.

Việc làm này không những phá vỡ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, mà còn tiếp tay cho một số tư nhân trục lợi trên tài sản đất đai do Nhà nước quản lý.

 Nguồn: Đức Cương - Báo CAND

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...