(TG) - Thực tế đã chứng minh
bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhân tố có
ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung và Đảng Cộng sản Việt
Nam nói riêng.
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ PHẢI THỰC SỰ
VỮNG VÀNG
Theo Đại Từ điển tiếng Việt,
bản lĩnh là khả năng và ý chí kiên định của con người trước mọi hoàn cảnh. Đối
với mỗi cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị là tố chất không thể thiếu, mang
tính quyết định tạo nên sự kiên định, khả năng độc lập, tự chủ trong hành động.
|
Ảnh minh họa |
Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên được cấu thành và
chịu tác động bởi nhiều yếu tố, như: trình độ lý luận chính trị; quan điểm, lập
trường chính trị; phẩm chất chính trị; năng lực chính trị; dũng khí chính trị…
Bởi vậy, để bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, đạt đến trình độ cao, có khả
năng tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của
bản thân, người cán bộ, đảng viên phải trải qua quá trình rèn luyện, tu dưỡng,
phấn đấu thường xuyên, kiên trì và bền bỉ.
Trước những bước ngoặt hay những tình huống nhạy cảm, phức tạp về
chính trị, cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ không nao núng,
không chao đảo, ngả nghiêng mà luôn giữ vững lập trường, làm chủ tư duy của bản
thân, có những quyết định chính xác để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Thực tế đã chứng minh bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một
trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung
và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Ý thức rõ về điều đó nên trong nhiều văn
kiện, đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn
mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn
Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt các cấp; không dao động trước bất kỳ tình huống nào”(1).
Thực tiễn đã khẳng định, trong suốt hành trình hơn 90 năm xây
dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định đưa đất nước ta, nhân
dân ta tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ
tích lịch sử trong thế kỷ XX và 20 năm đầu thế kỷ XXI.
Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường,
mở cửa hội nhập và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, về cơ
bản toàn Đảng, toàn dân ta có sức “đề kháng” tốt, bản lĩnh chính trị luôn vững
vàng, nhận thức đúng về bản chất cách mạng, khoa học và kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tích cực, chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch, làm thất mọi bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hòng chống phá
cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta vấp phải không ít hạn chế, khuyết điểm, đặc biệt là
trong công tác xây dựng Đảng… Trước những tác động tiêu cực, một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên đã nao núng, chao đảo, ngả nghiêng, thậm chí thay đổi hẳn
về quan điểm, tư tưởng lập trường. Do không làm chủ bản thân nên không ít cán
bộ, đảng viên đã có những quyết định, hành động sai trái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”.
Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đảng ta đã thi hành kỷ luật hơn
100 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Số ít cán bộ, đảng viên, trong đó có
người từng giữ những chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, một thời được
trọng dụng nay “trở cờ” quay lưng với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Điển hình phải nhắc tới là
trường hợp Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống. Khi còn công tác vị giáo sư này
luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng và trở thành Nhà giáo Nhân dân, một
chuyên gia đầu ngành đóng góp nhiều công sức cho công tác nghiên cứu khoa học
và đào tạo trong lĩnh vực xây dựng. Nhưng do bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng
mà sau khi nghỉ hưu, thay vì đóng góp một phần nào công sức, trí tuệ vào sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, là tấm gương sáng để con cháu noi theo, chỉ vì những
ích kỷ cá nhân, lại thêm bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, ông đã lên mạng xã hội
tuyên bố rời bỏ Đảng, sau nữa là liên tục viết bài tuyên truyền xuyên tạc chống
phá Đảng, Nhà nước… Tương tự là trường hợp ông Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ
Khoa học - Công nghệ. Sau khi nghỉ hưu, ông Chu Hảo chuyển sang công tác ở Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với cương vị là Tổng Biên tập, Giám
đốc Nhà xuất bản Tri thức. Là một đảng viên lâu năm, gia đình có truyền thống
cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước nhưng ông Chu
Hảo đã có những vi phạm rất nghiêm trọng. Ngoài cho xuất bản 5 cuốn sách có nội
dung sai phạm về chính trị tư tưởng, trái quan điểm, chủ trương đường lối của
Đảng, cơ quan chức năng đã thẩm định, kết luận và xử lý cấm phát hành, qua báo
chí, mạng xã hội và thực tiễn ông Chu Hảo còn nói, viết và làm trái với Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.v.v.
Tuy tính chất, mức độ ở từng vụ
việc, ở từng đối tượng khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản, chủ quan, lớn nhất
khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là do bản lĩnh chính trị không vững vàng. Bản thân từng đồng chí
thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên đã dẫn đến nói, viết và làm trái quan điểm, đường
lối của Đảng. Đứng trước các vấn đề, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp
trong đời sống xã hội, họ đã thiếu kiên định, thiếu sáng suốt, lựa chọn sai
đường hướng, phương pháp tư duy dẫn tới sai lầm trong hành động và “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Hay nói một cách khác, thoái hóa, biến chất, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu của bản lĩnh chính trị không vững
vàng. Vấn đề này cũng đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra là:
“Do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường
tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên
ngoài;…” .
PHẢI THƯỜNG XUYÊN NÊU CAO Ý
THỨC RÈN LUYỆN, TU DƯỠNG
Trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng
đến bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đáng chú ý là từ mặt
trái của cơ chế thị trường, tác động xấu từ các quan điểm sai trái, từ sự kích
động, lôi kéo, móc nối của các thế lực thù địch. Đúng như nhận định của Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII: “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc,
bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân
chủ nghĩa”. Đồng thời, chúng còn “cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn
chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm
hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi phương kế tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gieo rắc vào cán bộ, đảng viên tư tưởng
hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Bài học đắt giá rút ra từ thực trạng như đã nêu trên là mọi cán
bộ, đảng viên dù đảm nhiệm công việc gì, trên cương vị nào, trọng trách gì cũng
phải thường xuyên nêu cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng. Chỉ có thông qua tự rèn
luyện, tu dưỡng phấn đấu mỗi cán bộ, đảng viên mới không ngừng bồi đắp nâng cao
bản lĩnh chính trị, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” cho bản
thân trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm
chấtquyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của
toàn Đảng.
Để không thoái hóa, biến chất,
không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính
trị thật sự kiên định, vững vàng. Dưới góc nhìn chính trị tư tưởng, sự vững
vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin có vai trò rất quan trọng quyết định “sức đề
kháng”, khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị vững
vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ,
đảng viên cũng như của toàn Đảng. Bản lĩnh chính trị không phải tự nhiên mà có,
không phải có được trong một sớm một chiều, mà đó là sản phẩm của quá trình
giáo dục, bồi dưỡng, học tập, nghiên cứu, rèn luyện thường xuyên, kiên trì và
bền bỉ. Những tác động xấu từ mặt trái của xã hội, từ các quan điểm sai trái,
thù địch, nhất là trên không gian mạng là không hề nhỏ. Hằng ngày, hằng giờ
những tư tưởng, quan điểm sai trái, những yếu tố tiêu cực len lỏi vào mọi ngõ
ngách của đời sống xã hội, tác động đến mọi đối tượng. Để hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực đến bản lĩnh chính trị đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và toàn
Đảng ta phải có những giải pháp đồng bộ, thống nhất và quyết liệt.
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đó là phải coi trọng
đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhằm củng cố và tăng cường bản lĩnh chính
trị trong Đảng, bồi đắp lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin khoa học, tạo sự
thống nhất cao cả về ý chí và hành động trong toàn Đảng để thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn. Quan trọng là vậy
nhưng trên thực tế thời gian qua không ít cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các cấp nhận
thức chưa đúng, chưa thống nhất, nên chưa thấy hết trách nhiệm của
mình với công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Do đó, muốn đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng thì trước tiên phải đổi mới
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của
công tác này. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ,
đảng viên cần xác định đây là trách nhiệm chính trị của mình.
Mặt khác, việc tiến hành công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, duy trì chế độ học tập, sinh hoạt chính trị ở
không ít địa phương, cơ sở lâu nay vẫn nặng về hình thức. Vấn đề đặt ra đối với
mỗi tổ chức Đảng hiện nay là phải đổi mới mạnh mẽ về phương pháp tiến hành công
tác giáo dục chính trị tư tưởng theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phù hợp
môi trường, điều kiện công tác của cán bộ, đảng viên, có chiều sâu, khoa học và
hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tuyên
truyền phải tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong đường lối
lãnh đạo của Đảng ta.
Hiệu quả công tác giáo dục
chính trị tư tưởng được thể hiện tập trung ở chất lượng xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. Công tác giáo dục chính
trị tư tưởng của Đảng phải tập trung cao độ vào xây dựng ý thức, niềm tin và cổ
vũ, khích lệ ý chí, quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân để đưa nghị
quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Hiệu quả thực hiện nghị quyết của Đảng trên
thực tế đó chính là thước đo bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên
và toàn Đảng. Cơ sở nền tảng cho sự vững vàng bản lĩnh chính trị của đội ngũ
cán bộ, đảng viên là sự kết hợp giữa trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
với kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thực tiễn. Để có bản lĩnh chính trị thực sự
vững vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng
cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải lăn lộn vào phong trào
hành động cách mạng để thử lửa, tôi luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Không chỉ có khả
năng và “sức đề kháng” tốt, trên cơ sở bản lĩnh chính trị vững vàng, mỗi cán
bộ, đảng viên cần phải chủ động, tích cực tham gia đấu tranh, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời
kỳ mới./.
_________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.199.
Nguồn: Phùng Kim Lân