TCCS - Luận điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn
minh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được cắt nghĩa từ những chiều cạnh, phương
diện khác nhau. Bài viết góp phần làm rõ hơn phẩm cách “đạo đức”, “văn minh” của
toàn Đảng và mỗi đảng viên; qua đó, khẳng định tính tiền phong, gương mẫu, vai
trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền cũng như bản chất của một đảng mác-xít
chân chính.
“Đạo
đức”, “văn minh” là những khái niệm của triết học, văn hóa học, đạo đức học,...
bên cạnh những giá trị chung mang tính xã hội còn có những giá trị riêng do quy
định của tính giai cấp và điều kiện lịch sử - cụ thể. Đối với Đảng ta, khi nói
“xây dựng Đảng về đạo đức” thì đạo đức ở đây chính là đạo đức cách mạng, phân
biệt với đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản... Đạo đức cách mạng bao gồm các
nguyên tắc, chuẩn mực phản ánh bản chất của Đảng, có tác dụng điều chỉnh hoạt động
trong toàn Đảng và mỗi đảng viên, có tính lan tỏa, định hướng đạo đức xã hội nhằm
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đã đề ra. Đạo đức cách mạng
là cốt lõi của văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền. Nói tới “văn minh” trong
trường hợp này là nói tới trình độ lãnh đạo, quản lý của một chính đảng, một
nhà nước, rộng hơn là các chủ thể quản trị quốc gia, mà thước đo được đánh giá ở
tính ưu việt, tiến bộ, vượt qua cái thoái bộ, lạc hậu. Khi nói “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh” là bao hàm cả đạo đức, văn minh của toàn Đảng và đạo đức, văn
minh của mỗi đảng viên; thể hiện ở bản chất, mục tiêu, sứ mệnh, tổ chức và hoạt
động, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tư cách, nghĩa vụ và hành động
của người đảng viên.
Bác Hồ với nữ chiến sĩ thi đua miền Bắc _Tranh: Tư liệu |
1-
Bản chất chính là phần “lõi” làm nên phẩm cách “đạo đức”, “văn minh” của một đảng
chính trị, mà nếu xa rời phần “lõi” ấy thì cũng đồng nghĩa với suy thoái đạo đức
và đi ngược lại văn minh. Đây là xem xét mặt đạo đức, văn minh từ mục đích hướng
tới, đối tượng phục vụ, nhờ đó minh định hoạt động của một đảng chính trị thúc
đẩy cái tiến bộ, văn minh hay duy trì, bảo vệ cái thoái bộ, phản văn minh; vì lợi
ích công hay lợi ích tư; vì quyền lợi của đa số nhân dân hay vì “lợi ích nhóm”
của thiểu số lực lượng cầm quyền.
Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Bản chất của Đảng
được khẳng định không chỉ qua tuyên ngôn chính trị, mà quan trọng hơn là bằng
hành động chính trị, với sự thống nhất giữa tri và hành, giữa lời nói và việc
làm. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã công khai tuyên bố bản chất của mình gắn với mục đích xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không
còn tình trạng người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản. Bản chất, mục đích đó khẳng định sứ mệnh của Đảng
là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc,
vì tiến bộ xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người là
một sự nghiệp cao cả, hiện thân cho đạo đức, văn minh, đối lập với thực dân,
bóc lột, áp bức, bất công, chà đạp lên phẩm giá con người là phi đạo đức, phản
văn minh. Hiện thân “là đạo đức, là văn minh”, bởi ngoài lợi ích của quốc gia -
dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, vì tiến bộ xã
hội, văn minh cho nhân loại, Đảng ta không có lợi ích nào khác.
Công
khai tuyên bố bản chất, mục đích, sứ mệnh không chỉ có ý nghĩa tạo dựng ngọn cờ
dẫn lối, soi đường, thống nhất hành động trong Đảng, tập hợp lực lượng dân tộc,
đoàn kết quốc tế, mà còn là cơ sở cho nhân dân giám sát Đảng qua hành động thực
tế. Đó là phẩm chất đạo đức, tính chính đáng của một đảng mác-xít chân chính.
Điều này khác biệt hoàn toàn với không ít đảng phái trên thế giới, dù mang tên
Đảng Công nhân (Labour Party) hoặc Đảng Dân tộc (Nation Party),... nhưng trên
thực tế lại không hề phản ánh bản chất giai cấp công nhân, không đại diện cho lợi
ích của dân tộc và nhân dân lao động. Rất phổ biến trong các nền dân chủ đa
nguyên phương Tây là mỗi chính đảng đại diện cho lợi ích của một phe nhóm, tập
đoàn người cụ thể, mà trong nhiều trường hợp vì lợi ích ích kỷ của phe nhóm sẵn
sàng hy sinh lợi ích của đa số nhân dân lao động.
2-
“Đạo đức”, “văn minh” của Đảng thể hiện trước hết ở sự kiên định chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời
đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đây là đạo đức, văn minh xét từ
phương diện hoạch định đường lối chính trị trung thành với nền tảng tư tưởng đã
lựa chọn và ý thức, trách nhiệm kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kiên
định với lòng trung thành và tinh thần sáng tạo “là đạo đức, là văn minh”, khác
biệt hoàn toàn với bảo thủ, giáo điều hoặc cơ hội chính trị. Phải trong những
hoàn cảnh khó khăn, thử thách mới biết đâu là kiên định, đâu là thói xu thời,
cơ hội chính trị, nhất là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ, không ít Đảng Cộng sản từ bỏ lời thề ban đầu, phản bội
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trên tinh thần kiên định và sáng tạo, ngay từ khi bắt đầu
khởi động công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định dứt khoát, đổi mới tư duy là nhằm
khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời
đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển, chứ không phải xa rời
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng
những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện
pháp thích hợp(1). Đây là những tư tưởng đổi mới được thực hiện bằng động cơ đạo
đức, thể hiện tinh thần kiên định và sáng tạo, chống cả bảo thủ, giáo điều và
cơ hội chính trị.
Coi
trọng, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ
nhân loại thể hiện phẩm chất đạo đức, trình độ tư duy của Đảng cách mạng luôn
vươn tới tầm cao trí tuệ bằng tinh thần biện chứng, kế thừa giá trị lịch sử dân
tộc và học hỏi văn minh nhân loại. Đó là thái độ khoa học với di sản quá khứ của
ông cha và di sản văn hóa nhân loại bằng tinh thần kế thừa, đổi mới và phát triển.
Nó xa lạ với bệnh giáo điều, rập khuôn mô hình bên ngoài mà không tính đến đặc
điểm quốc gia - dân tộc, tuyệt đối hóa tính phổ biến mà xem nhẹ tính đặc thù.
Nó cũng đối lập với những quan niệm phi đạo đức, theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, dân tộc hẹp hòi. Tiếp thu trí tuệ, tinh hoa văn hóa, thành tựu văn minh
nhân loại chính là biết “đứng trên vai người khổng lồ” để Đảng cầm quyền và dân
tộc ta trưởng thành hơn, lớn mạnh hơn. Điều này khác với chủ nghĩa biệt lập,
tách dân tộc khỏi thế giới, không những cản trở khả năng tiếp thu tinh hoa văn
hóa, văn minh nhân loại, mà còn đánh mất cơ hội hội nhập quốc tế, phát huy sức
mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trên thế giới.
Nắm
vững quy luật khách quan, xu hướng vận động thực tiễn để đề ra Cương lĩnh, đường
lối phù hợp với nguyện vọng của nhân dân vừa là đạo đức, vừa là văn minh. Tính
đúng đắn, sáng suốt của đường lối chính trị được bảo đảm bằng trình độ tư duy
và phẩm chất đạo đức. Nếu trình độ tư duy là điều kiện “cần” thì động cơ đạo đức
là điều kiện “đủ” cho hoạch định đường lối và phương pháp lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt. Nói cách khác, đạo đức “chí công vô tư”, vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
vì hạnh phúc của nhân dân, loại bỏ mọi lợi ích cục bộ, cá nhân không chính
đáng,... có tác dụng phòng ngừa bệnh chủ quan duy ý chí, tránh được sai lầm, nhờ
đó hoạch định được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Chủ tịch
Hồ Chí Minh có một nhận xét hết sức sâu sắc về vấn đề này: Người có đạo đức thường
tiếp thu chân lý dễ hơn, “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày
càng ít, mà những tính tốt... ngày càng thêm”(2). Kinh nghiệm lịch sử cho thấy,
không ít sai lầm về đường lối và phương pháp lãnh đạo thường xuất phát từ bệnh
chủ quan duy ý chí, thoát ly thực tế, không quan tâm đầy đủ nguyện vọng của
nhân dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sai lầm trong lãnh đạo - quản lý
còn có thể do cài đặt “lợi ích nhóm” khi hoạch định chính sách, từ đó làm méo
mó, biến dạng bản chất, mục đích chính sách công, gây ảnh hưởng, tổn hại đến lợi
ích quốc gia - dân tộc. Những trường hợp nêu trên đều là những hành vi thiếu đạo
đức, đi ngược lại cách thức tổ chức quản lý xã hội văn minh, phải được phòng ngừa,
ngăn chặn, kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng _Ảnh: Tư liệu |
3-
“Đạo đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở trình độ tổ chức chặt chẽ, thống
nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức
cơ bản. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa một đảng cách mạng chân chính với những
đảng phái đại diện cho từng nhóm lợi ích trong các thể chế dân chủ đa nguyên.
Nói cách khác, đây chính là đạo đức, là văn minh xét từ chiều cạnh khoa học tổ
chức của một đảng chính trị kiểu mới.
Tổ
chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh làm nên sức mạnh
của Đảng, phản ánh trình độ, năng lực của một đảng chính trị kiểu mới. Trước
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trên đất nước ta, không ít tổ chức chính trị
đã xuất hiện, theo các lập trường tư tưởng khác nhau, tổ chức thiếu chặt chẽ,
thậm chí lỏng lẻo, để cho cả mật thám Pháp chui vào phá hoại nội bộ; các thành
viên thiếu thống nhất về tư tưởng, không nhất quán về hành động;... nên dần rơi
vào suy yếu, phân liệt, tan rã. Trên thế giới, nhiều đảng chính trị được tổ chức
không khác gì câu lạc bộ, phường hội, kết nạp thành viên theo kiểu “đánh trống
ghi tên”, thiếu sức mạnh của nguyên tắc tổ chức, kỷ luật, làm cho đảng viên dễ
ngả nghiêng, dao động, thay đổi lập trường khi gặp khó khăn, thậm chí còn sẵn
sàng “trở cờ” gia nhập đảng phái khác. Ngược lại, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ
chức chặt chẽ, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, toàn Đảng là một khối thống
nhất ý chí và hành động, triệu người như một, tạo nên sức mạnh vô địch, không
chỉ đề kháng, đấu tranh có hiệu quả với sự tấn công phá hoại từ bên ngoài, mà
còn phòng ngừa, ngăn chặn, triệt tiêu từ sớm, từ xa các nguy cơ suy thoái từ
bên trong.
Sức
mạnh của Đảng được tạo nên bởi tổ chức chặt chẽ, dựa trên các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của một đảng mác-xít chân chính, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
làm nguyên tắc cơ bản. Tổ chức chặt chẽ phản ánh trình độ khoa học tổ chức của
một chính đảng kiểu mới, cho phép tối ưu hóa việc thực hiện các quyết sách
chính trị, thống nhất giữa đường lối tổ chức và đường lối chính trị, làm cho “dọc
ngang thông suốt”, “trên dưới đồng lòng”, bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Ngọn nguồn của sức mạnh tổ chức chính là dựa vào các nguyên tắc tổ chức,
cơ chế vận hành, kỷ luật tự giác, bảo đảm chuyển hóa sức mạnh cá nhân thành sức
mạnh tập thể, sức mạnh bên ngoài thành sức mạnh bên trong, sức mạnh từng thành
tố thành sức mạnh tổng hợp. Thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực
chất, nghiêm túc khiến trí tuệ, năng lực của mỗi tổ chức đảng và đảng viên được
khơi dậy, tôn trọng, phát huy đầy đủ; quyền lực chính trị được tập trung một
cách chính đáng, có trách nhiệm, đủ quyền năng để ra quyết định và tổ chức thực
hiện thắng lợi mọi quyết sách; phòng ngừa khả năng tập trung quan liêu, chuyên
quyền, độc đoán cũng như loại bỏ nguy cơ tự do vô chính phủ, đẩy Đảng tới chỗ
phân liệt. Tuân thủ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ còn đặt ra yêu cầu giữ
vững kỷ cương, kỷ luật. Mọi đảng viên không được nói, viết và làm trái với
Cương lĩnh, Điều lệ, quy định của Đảng; mọi vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm từ
trên xuống dưới, không có ngoại lệ. Kỷ luật nghiêm minh của Đảng là cơ sở cho
giữ vững kỷ cương, phép nước, xây dựng xã hội văn minh.
“Đạo
đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trong
Đảng, thực hành tự phê bình và phê bình, mọi tổ chức đảng và đảng viên hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Đoàn kết thống nhất dựa trên nhận thức sâu sắc và hành
động nhất quán theo Cương lĩnh, đường lối chính trị, thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ. Khi xây dựng đường lối, chủ trương phải thực hành dân chủ rộng
rãi, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng khi đã thành quyết định chính trị thì mọi
tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục tùng, nghiêm chỉnh thực thi, không cho
phép ai nói và làm trái nghị quyết. Nghịch chiều với đoàn kết thống nhất là
chia rẽ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nguy hại khôn lường, đẩy Đảng rơi vào suy yếu,
phân liệt. Tự phê bình và phê bình là một cơ chế phòng ngừa, tự phát hiện lỗi
và sửa chữa lỗi khi còn mới manh nha, ngăn chặn khả năng biến thành khuyết điểm
nghiêm trọng. Điều này phân biệt với các biểu hiện chủ quan, tự mãn, thiếu
nghiêm khắc với chính mình và đồng chí của mình, từ đó mà phát sinh khuyết điểm.
Quản trị xã hội văn minh đặt ra yêu cầu nghiêm cẩn đối với mọi công dân phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; trong đó, tổ chức đảng và đảng viên phải làm
gương, không cho phép bất cứ ai đứng trên pháp luật và đứng ngoài pháp luật.
Quy định pháp luật là đạo đức tối thiểu, nếu công dân được làm những gì pháp luật
không cấm thì cán bộ, đảng viên chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Gắn
bó máu thịt với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng không chỉ là yêu cầu, mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mọi tổ chức
đảng và đảng viên khi đã xác định sứ mệnh phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, lấy
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân làm cơ sở chính trị cho tồn tại và hoạt động
của Đảng.
4-
“Đạo đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở nội dung quan trọng là tư cách,
nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên. Mỗi đảng viên khi nhận thức và hành động
đúng theo các chuẩn mực “đạo đức”, “văn minh” thì sẽ trở thành nhân tố quan trọng
nhất cho xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Nói cách khác, đây chính
là xem xét phẩm cách “đạo đức”, “văn minh” của Đảng qua đảng viên - nhân tố “động”
cấu thành tổ chức đảng.
Tư
cách người đảng viên cộng sản thể hiện tập trung ở phẩm chất đạo đức, trình độ,
tính tiên phong để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền. Tư
cách đó giúp người đảng viên làm tròn vai trò tiền phong, gương mẫu, “đảng viên
đi trước, làng nước đi sau”; suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi
ích cá nhân; định hình chế độ kỷ luật tự giác, chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều
lệ, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành sứ mệnh
lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền, người đảng viên phải nỗ lực phấn đấu, rèn
luyện suốt đời về mọi mặt, được chế định thành tiêu chuẩn cụ thể về trình độ học
vấn, trình độ lý luận, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó
máu thịt với nhân dân, phục tùng tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Là đảng viên của Đảng cầm quyền, nắm giữ cương vị càng
cao thì càng phải nêu gương học tập, rèn luyện để hội đủ tiêu chuẩn cao cả về
trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức. Tư cách đảng viên đòi hỏi mỗi đảng
viên phải tự giác tuân thủ kỷ luật, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, rèn
luyện phong cách, lối sống hằng ngày, cả trong hoạt động công vụ và sinh hoạt đời
thường, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, phòng ngừa nguy cơ suy thoái.
Nghĩa
vụ đảng viên là sự cụ thể hóa bản chất, mục đích, sứ mệnh của Đảng thành những
công việc cụ thể mà đảng viên phải thực hiện bằng tất cả lương tâm, danh dự,
tình cảm và trách nhiệm. Nhìn vào nghĩa vụ đảng viên có thể lượng hóa được đạo
đức cách mạng, trình độ và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Điều lệ Đảng
của các kỳ đại hội Đảng đã thao tác hóa nghĩa vụ đảng viên thành các nhiệm vụ đảng
viên gắn với trách nhiệm chính trị cụ thể, như Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua vào tháng 1-2011) đã nêu 4 nhiệm vụ đảng
viên(3). Ngoài quy định của Điều lệ Đảng, nghĩa vụ, nhiệm vụ, trách nhiệm đảng
viên còn được cụ thể hóa trong các quy định cá biệt, nhất là Quy định về những
điều đảng viên không được làm (19 điều), hay nhận diện những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ (27 biểu hiện). Từ phương diện đạo đức cầm quyền, nghĩa vụ đạo đức
đảng viên bao gồm những công việc đảng viên phải làm bằng lương tâm, danh dự,
trách nhiệm tự giác, thể hiện qua xử lý các mối quan hệ cơ bản, như với chính
mình, với Đảng, với nhân dân, với công việc. Với chính mình, đó là nghĩa vụ,
trách nhiệm phải thường xuyên tự học tập, nâng cao trình độ, năng lực mọi mặt;
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phong cách, lối sống để xứng đáng với vai trò lãnh
đạo, cầm quyền, phòng ngừa, đấu tranh với mọi cám dỗ, các biểu hiện, hành vi
làm xói mòn bản chất của một đảng cách mạng chân chính, trước hết là đấu tranh
với chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực. Với Đảng, đó là phẩm chất trung
thành tuyệt đối, thể hiện ở tinh thần kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
chấp hành, phục tùng Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của Đảng; thực hiện nghiêm
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai
phải kiên quyết đấu tranh, nhất là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch. Với nhân dân, chính là thắt chặt mối quan hệ
gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, mọi hoạt động đều vì nhân dân phục vụ, làm tốt
công tác dân vận, công tác xã hội, đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, xa
dân. Với công việc, phải phục tùng mọi nhiệm vụ được phân công; toàn tâm, toàn
ý với công việc; dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn, thách thức; năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nỗ lực, quyết
tâm cao nhất để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
5-
Đảng luôn nhận thức rõ, muốn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công thì bản
thân Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, mà sâu xa chính là đấu tranh giữa cái tiến bộ với cái thoái bộ,
giữa đổi mới với bảo thủ, trì trệ, giữa tính cách mạng với những lực cản níu
kéo. Đây chính là đạo đức, văn minh nhìn từ chiều cạnh nắm vững quy luật vận động
nội tại của một đảng cách mạng để không ngừng vươn tới hoàn thiện năng lực lãnh
đạo, giữ gìn và thúc đẩy các phẩm chất tốt đẹp, khẳng định tính chính đáng của
sự cầm quyền.
Tự
đổi mới, tự chỉnh đốn trước hết xuất phát từ nhu cầu tự thân của Đảng nhằm tăng
cường tính chính đáng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, phù hợp với bối cảnh
mới của đất nước và thời đại. Nhu cầu khách quan đòi hỏi Đảng cầm quyền phải
không ngừng hoàn thiện chính mình thông qua tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nếu không
sẽ bị thực tiễn vượt qua, không bắt kịp với sự vận động của thế giới, thay đổi
của thời thế. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng còn xuất phát từ yêu cầu kế thừa,
phát huy truyền thống tốt đẹp của một Đảng “là đạo đức, là văn minh” được Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các lãnh đạo tiền bối nhiều thế hệ dày công gây dựng, vun đắp, kể
cả hy sinh xương máu của các bậc tiên liệt. Đi vào kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, nếu Đảng không tự đổi mới, tự chỉnh đốn thì không thể đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng với những đòi hỏi cao hơn, thách thức lớn hơn. Không ít
nguy cơ, thách thức với tính chất phức tạp hơn, mối đe dọa nguy hiểm hơn vẫn xuất
hiện hằng ngày, hằng giờ, vì thế, nếu không thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
thì sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, nhất là các mối đe dọa đối với nguy cơ
tồn vong của chế độ từ tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đổi
mới là phủ định cái lạc hậu, khắc phục các khiếm khuyết, kiến tạo nên giá trị mới,
không ngừng vươn tới cái tiến bộ, ưu việt, hoàn thiện hơn, dựa trên kiên định lập
trường, nguyên tắc. Vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, khi đất nước rơi vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đổi mới trở thành mệnh lệnh đạo đức tối cao để
tháo gỡ rào cản cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, giải phóng mọi tiềm
năng, sức mạnh của nhân dân, làm cho đất nước phát triển. Đổi mới là một quá
trình liên tục, không có điểm kết thúc, làm cho Đảng hoàn thiện hơn cả trong nhận
thức lý luận và hành động thực tiễn, tổ chức bộ máy và con người, phong cách
lãnh đạo và phương pháp làm việc... Đổi mới tư duy lý luận đóng vai trò quan trọng
hàng đầu nhằm bảo đảm cho lý luận đủ sức vươn lên dẫn đường và đồng hành cùng
thực tiễn, làm cho đường lối chính trị luôn sáng suốt, có khả năng dự báo cao,
có tầm nhìn dài hạn. Không dừng lại ở nhận thức lý luận, đổi mới còn thể hiện bằng
hành động thực tế và chính trong hành động mới bộc lộ một cách đầy đủ, chân thật
đạo đức cách mạng, bảo đảm nói đi đôi với làm, đường lối, chủ trương được tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu
phải đổi mới mạnh mẽ khâu tổ chức thực hiện nghị quyết, gắn mỗi quyết sách
chính trị với chương trình, kế hoạch, biện pháp và huy động, phân bổ nguồn lực
thực thi hiệu quả.
Chỉnh
đốn là uốn nắn, chấn chỉnh, sửa sang, sắp đặt lại cho quy củ, nền nếp, đúng trật
tự, phép tắc; sàng lọc, loại bỏ những yếu tố thoái hóa, hư hỏng, biến chất; nhờ
đó làm cho Đảng vững mạnh, trong sạch hơn. Chỉnh đốn Đảng được tiến hành toàn
diện từ tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, tổ chức đến cán bộ. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, sau mỗi thắng lợi,
Đảng ta đều tiến hành chỉnh đốn để tránh tư tưởng chủ quan, tự mãn, say sưa với
thắng lợi, không lường được khó khăn phía trước, phòng ngừa bệnh “kiêu ngạo cộng
sản”; những lúc cách mạng thoái trào thì càng phải chỉnh đốn nội bộ để xốc lại
tinh thần, củng cố đội ngũ, kiện toàn tổ chức,... làm cho mỗi tổ chức đảng và đảng
viên có thêm bản lĩnh, sức mạnh vượt qua khó khăn và thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, nguy cơ, thách
thức bên trong và bên ngoài đan xen nhau, diễn biến phức tạp, đòi hỏi xây dựng
Đảng phải gắn chặt với tăng cường chỉnh đốn Đảng. Những nhiệm vụ nổi lên cấp
bách trong chỉnh đốn Đảng hiện nay là đấu tranh với tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”; tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị; giữ nghiêm nguyên tắc, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, từ kỷ luật chính trị,
kỷ luật tổ chức đến kỷ luật phát ngôn; xử lý nghiêm mọi vi phạm nguyên tắc tổ
chức, kỷ luật, tiến hành sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những trường hợp
tha hóa, biến chất, làm cho Đảng vững mạnh hơn, trong sạch hơn.
Dưới
ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 93 năm qua, Đảng đã lãnh
đạo dân tộc ta, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên một
sự nghiệp vĩ đại - sự nghiệp vì dân tộc trường tồn, nhân dân hạnh phúc, đất nước
phát triển, vì lương tâm và phẩm giá con người. Thắng lợi đó là kết quả hội tụ
của nhiều nhân tố, mà trước hết và trên hết là phẩm cách của Đảng Cộng sản Việt
Nam - một Đảng cách mạng hiện thân “là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã đúc
kết./.
---------------------------
(1) Xem: Nghị quyết Hội nghị lần
thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3-1989), trong: Văn kiện Đảng
toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49 (1988 - 1989), tr. 591
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 291
(3) Bốn nhiệm vụ của đảng viên
là:
1. Tuyệt đối trung thành với mục
đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao
trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của
Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công
tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động
gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường
lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm
công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét