[CAND] Đến hẹn lại lên, vào các dịp cuối năm, Bộ Ngoại giao Mỹ thường đưa ra các báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo đối với các nước trên thế giới, Mỹ tự cho mình đóng vai trò “Cảnh sát quốc tế” để giám sát hoạt động của các nước về nhân quyền, tự do tôn giáo.
Ngày 2/12/2022 vừa qua, trên website của Bộ Ngoại giao Mỹ đã
đưa Việt Nam vào cái gọi là “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Điều
này gây nên những phản ứng của dư luận xã hội về sự thiếu khách quan trong nhìn
nhận, đánh giá thực chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời
thể hiện góc nhìn sai lệch của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Đại lễ Phật đản Vesak 2019 tổ chức tại Trung tâm Văn hóa Tam Chúc, Kim Bảng, Hà Nam. (Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ) |
Theo cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam cùng 3 nước
khác là Algeria, Cộng hòa Trung Phi, Comoros thuộc cái gọi là “Danh sách giám
sát đặc biệt về tự do tôn giáo”. Lý do phía Mỹ đưa ra là Việt Nam trong năm
2022 đã “can dự vào hay dung thứ cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn
giáo”. Đồng thời với Bộ Ngoại giao Mỹ là tổ chức Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn
giáo quốc tế (USCIRF) cũng công bố báo cáo mới về “Danh sách nạn nhân tự do tôn
giáo hay niềm tin”, theo đó cáo buộc Việt Nam chưa tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, đặc biệt tổ chức tôn giáo
chưa được công nhận tư cách pháp nhân.
Trước những cáo buộc phi lý của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam
đã có những phản hồi chính thức về vấn đề này. Cụ thể, ngày 15/12/2022, Phó
phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định: “Việc Mỹ đưa Việt Nam vào
danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu
khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo,
tín ngưỡng ở Việt Nam”.
Từ nội dung tuyên bố trên của Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng
như từ thực tiễn tình hình tự do tôn giáo cho thấy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở
chính trị, cơ sở pháp lý vững chắc để chứng minh những điều mà Bộ Ngoại giao Mỹ
đã nêu trong báo cáo là không chính xác, thiếu khách quan. Cụ thể:
Thứ nhất, việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách
theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách
quan, công bằng. Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa ra danh sách để đánh giá một
quốc gia có chủ quyền, độc lập như Việt Nam là đi ngược lại quy định Hiến
chương của Liên Hợp Quốc (LHQ) năm 1946. Mặt khác, cáo buộc này đã phủ nhận những
nỗ lực của Việt Nam khi tham gia vào “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966” mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 với điều 18 cam kết về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do
tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc
tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình
hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các
hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (khoản 1, Điều
18 Công ước năm 1966).
Thực tế tại Việt Nam, tình hình tự do tôn giáo được khẳng định
rõ trong Hiến pháp, pháp luật và được tôn trọng, bảo đảm trên thực tế. Nhiều
năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có tín đồ, chức sắc
tôn giáo được nâng cao, đã có những bước chuyển biến rất rõ nét, được cộng đồng
quốc tế ghi nhận. Đặc biệt với việc Việt Nam 2 lần trúng cử vào Hội đồng Nhân
quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025) với số phiếu bầu cao cho
thấy sự tín nhiệm của các nước trên thế giới với cách nhìn nhận đánh giá đúng đắn,
công tâm về tiến trình bảo đảm nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo ở
Việt Nam nói riêng.
Ngoài ra, những thành tựu gần đây về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam được bạn bè quốc tế ghi nhận như tổ chức thành công 3 lần Đại lễ
VESAK LHQ các năm 2008, 2014 và năm 2019; Việt Nam đã cùng với Giáo hội Công
giáo hoàn vũ (Vatican) tổ chức 9 vòng đối thoại thường niên để tiến tới xây dựng
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Vatican phục vụ lợi ích giữa giáo hội, giáo
dân và dân tộc Việt Nam. Đến nay, số lượng các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
công nhận là 16 tôn giáo, 43 tổ chức đăng ký hoạt động tôn giáo, nhiều tổ chức
tôn giáo mới hình thành đều được các cơ quan, ban, ngành chức năng hướng dẫn tỉ
mỉ theo quy định Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2106 đảm bảo tính thống nhất, ổn
định và tuân thủ quy định của luật pháp Việt Nam.
Thứ hai, cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ dựa trên những thông
tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Bộ Ngoại
giao Mỹ thường cử các phái đoàn ngoại giao vào Việt Nam để theo dõi, quan sát về
tình hình tự do tôn giáo, điều này phù hợp với tinh thần đối thoại, hợp tác lẫn
nhau giữa Việt Nam và Mỹ. Tính từ năm 2006 đến nay, phía Mỹ hằng năm thường
xuyên cử các phái đoàn hỗn hợp của Bộ Ngoại giao, Quốc hội Mỹ, tổ chức phi
chính phủ trực thuộc các cơ quan, ban, ngành của Mỹ đến thăm, tiếp xúc làm việc
với các cá nhân, chức sắc, tín đồ và tham dự các hội thảo, hội luận, tọa đàm do
chính quyền Việt Nam tổ chức để làm rõ hơn quy cách quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Mỹ thường cử phái đoàn đến thăm gặp, tiếp xúc với
cá nhân là chức sắc, tín đồ tôn giáo có những hoạt động vi phạm pháp luật hoặc
những hội nhóm chưa đủ điều kiện công nhận về tổ chức tôn giáo theo quy định
pháp luật. Đơn cử vào tháng 5 và tháng 10/2022, Bộ Ngoại giao Mỹ đã cử phái
đoàn vào Việt Nam để khảo sát tình hình tự do tôn giáo chỉ tiếp xúc với các hội
nhóm tôn giáo chưa được công nhận, thường xuyên vi phạm pháp luật như “Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Pháp luân công”, “Tin lành Đấng Christ các dân
tộc Việt Nam”, “nhóm Cao Đài, Hòa Hảo độc lập”, “tổ chức bất hợp pháp Dương Văn
Mình”… Họ lên tiếng bênh vực những cá nhân vi phạm pháp luật như đối tượng Nguyễn
Năng Tĩnh, Lê Đình Lượng, Hồ Đức Hòa… trong Công giáo; đối tượng Nguyễn Trung
Tôn, Y Hinnie, A Ga, A Đảo… trong đạo Tin lành; đối tượng Thích Không Tánh,
Thích Tuệ Sỹ trong “Phật giáo Việt Nam thống nhất”. Thậm chí, những kẻ cố tình
lợi dụng danh nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo như đối tượng Lê Tùng Vân tại “Thiền
am bên bờ vũ trụ” (còn gọi là Tịnh thất Bồng Lai), tỉnh Long An cũng được phía
Mỹ liệt kê vào danh sách cần “quan tâm, bảo vệ”.
Chính từ thu nhận bởi những tiếng nói của các cá nhân, tín đồ
vi phạm pháp luật như trên nên phía Bộ Ngoại giao Mỹ đã vin vào đó để quy kết
phía Việt Nam đang “đàn áp tự do tôn giáo” và cho rằng, việc xử lý những đối tượng
vi phạm pháp luật, phạm tội là “xử lý và đàn áp tôn giáo”. Điều này thể hiện
cách nhìn nhận thiếu khách quan và áp đặt tiêu chuẩn tự do tôn giáo của Mỹ đối
với Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam và Mỹ đã xây dựng được cơ chế đối thoại
trên cơ sở niềm tin, bình đẳng và hướng đến sự ổn định phát triển giữa hai quốc
gia, dân tộc. Những năm qua, hai nước đã thường xuyên tổ chức “Đối thoại Nhân
quyền thường niên Hoa Kỳ - Việt Nam” nhằm trao đổi, đối thoại giải quyết những
vướng mắc, bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo. Năm 2022,
hai nước đã tổ chức cuộc họp Đối thoại nhân quyền tại Mỹ thu được kết quả thành
công tốt đẹp, mở ra triển vọng mới về cải thiện nhân quyền tích cực ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Thế nhưng, Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa Việt Nam vào
“Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” năm 2022 đã phủ nhận những nỗ lực
của Chính phủ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ trong tiến trình tạo niềm tin, củng cố
quan hệ ngoại giao. Việc đưa ra những đánh giá, nhận định nêu trên của Bộ Ngoại
giao Mỹ đã tạo thêm những cơ sở, điều kiện để các thế lực thù địch, đối tượng
cơ hội chính trị tuyên truyền xuyên tạc sai lệch bản chất vấn đề tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam.
Thứ tư, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo với tổ chức, cá nhân chức sắc, tín đồ. Hiện nay, Việt
Nam đang thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (có hiệu lực thi hành năm
2018), Nghị định 162/NĐ-CP quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị quyết số 25/NQ-TƯ ngày 12/3/2003, Hội nghị
Trung ương 7, Khóa IX về công tác tôn giáo, nêu 5 quan điểm về chính sách trong
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, tín đồ. Những quy định
này đã tạo cơ sở cho những phát triển, thành tựu trên lĩnh vực tôn giáo, trong
đó nhìn nhận yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo là “nhu cầu không thể thiếu của một bộ
phận người dân” và “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo”; xác định
tín ngưỡng, tôn giáo là nguồn lực quan trọng mà các cơ quan, ban, ngành chức
năng trong hệ thống chính trị phải phát huy nguồn lực này góp phần xây dựng,
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng thiết chế văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,
gắn tín ngưỡng, tôn giáo với đạo đức con người, văn hóa dân tộc.
Thứ năm, sự phát triển lớn mạnh của các tổ chức tôn giáo ở
trong nước và liên kết quan hệ quốc tế trong tôn giáo là minh chứng cho thấy
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào thế giới. Định
hướng phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có thể thấy rõ thông qua nội
dung Hiến chương, điều lệ, quy định của tôn giáo luôn bám sát yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, Phật giáo luôn kiên định con đường
“Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo tự hào với quan điểm “sống
phúc âm trong lòng dân tộc”; đạo Tin lành với Hiến chương “phụng sự Thiên Chúa,
phục vụ Tổ quốc”; đạo Cao Đài với khẩu hiệu “nước vinh - đạo sáng”… đã khơi dậy
truyền thống gắn kết giữa tín ngưỡng, tôn giáo với tinh thần tự lực, tự cường,
độc lập dân tộc.
Mặt khác, trong xu thế mở cửa hội nhập hiện nay, nhiều tổ chức
tôn giáo ở Việt Nam đã vươn mình, khẳng định sự lớn mạnh bằng việc tổ chức các
sự kiện hành hương, đại lễ, lễ trọng thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế. Cụ
thể: Đại lễ VESAK Phật giáo LHQ năm 2019 diễn ra tại chùa Tam Chúc, Hà Nam đã
có hơn 500 phái đoàn quốc tế đến tham dự; lễ hành hương tại La Vang (Quảng Trị),
Sở Kiện (Hà Nam) của Công giáo Việt Nam đã thu hút sự tham gia của hàng trăm tổ
chức Công giáo trên thế giới đến hành hương, chiêm bái. Những điều này thể hiện
rõ tầm ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội trong nước; đồng thời xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam có đầy đủ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tóm lại, từ những thành tựu có được trong bức tranh về tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là minh chứng sống động cho thấy hơn bao giờ hết tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trở thành động lực, yếu tố thúc đẩy gắn kết, đoàn kết
xã hội, xây dựng xã hội mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Những cáo buộc của
phía Mỹ khi đưa Việt Nam vào “danh sách cần giám sát đặc biệt về tự do tôn
giáo” thực sự chưa thể hiện góc độ tiếp cận tích cực, thiếu căn cứ pháp lý, đi
ngược lại những cam kết mà phía Mỹ và Việt Nam đã ký kết, thỏa thuận. Hi vọng rằng
trong thời gian tới, phía Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những đánh giá khách quan, cụ
thể, sâu sát và vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để đưa ra những
đánh giá, quyết định hữu ích cho quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc.
Vũ Tiến Lợi - Nguyễn
Xuân Thịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét