Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

Thủ tướng: Phải kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng của người lao động

VOV.VN - Thủ tướng đề nghị các ban, bộ, ngành, các cấp ủy, chính quyền các cấp phối hợp với tổng liên đoàn và các cấp công đoàn giải quyết kịp thời nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người lao động.

Sáng nay (1/2) Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang chủ trì Hội nghị đánh giá kết quả phối hợp công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2022 và đề ra nhiệm vụ trọng tâm phối hợp công tác năm 2023 và thời gian tới.

Cùng dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. 

Công tác phối hợp giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động; chăm lo, giải quyết các vấn đề về cải thiện điều kiện làm việc và phòng ngừa tai nạn lao động; kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với người lao động, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển KTXH, nâng cao đời sống nhân dân.

Ngay từ đầu năm, hai bên đã tích cực, chủ động phối hợp thực hiện toàn diện, có hiệu quả các nhiệm vụ theo Quy chế phối hợp công tác, cả những công việc thường xuyên và nhiệm vụ đột xuất, phát sinh, hướng vào giải quyết những vấn đề cấp thiết liên quan tới việc làm, thu nhập, đời sống của công nhân lao động; Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh, giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; Tập trung phát triển KTXH, đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống.

Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương và TLĐLĐVN phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến người lao động. Đã lắng nghe, tiếp thu và phối hợp chỉ đạo giải quyết kịp thời các kiến nghị, đề xuất của tổ chức Công đoàn và người lao động một cách thấu đáo, có trách nhiệm, nhất là về việc làm, thu nhập; vấn đề nhà ở của công nhân, người lao động; đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, trường học, trạm y tế, nhu cầu về văn hóa, nơi vui chơi giải trí tổ chức, phối hợp tổ chức trên 26.600 cuộc giám sát; phối hợp tổ chức 3.658 cuộc phản biện về các chế độ, chính sách; chăm lo cho đoàn viên, người lao động, nhất là trong dịp Tết nguyên đán nguồn kinh phí gần 4.600 tỷ đồng cho gần 6,5 triệu lượt đoàn viên Tết Nguyên đán 2023.

Hai bên phối hợp tuyên truyền, thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Công đoàn Việt Nam cũng tích cực đổi mới tổ chức và hoạt động theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị, xây dựng Công đoàn Việt Nam theo hướng vững mạnh toàn diện, có năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tại hội nghị, các đại biểu đã đưa ra nhiều ý kiến về những kết quả đạt được trong công tác phối hợp thời gian qua; những thuận lợi, khó khăn, hạn chế, bài học kinh nghiệm; những giải pháp thiết thực để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác chăm lo đời sống cho công nhân lao động, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, góp phần quan trọng vào thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhiệt liệt biểu dương, đánh giá cao và cám ơn sự phối hợp chặt chẽ, đồng hành có hiệu quả của Công đoàn Việt Nam, đoàn viên và người lao động cả nước thời gian qua, góp phần quan trọng vào thành công chung của cả nước.

Thủ tướng khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh và tổ chức công đoàn vững mạnh, coi đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Vai trò, vị trí và sứ mệnh của Công đoàn Việt Nam được xác định rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị. Theo đó, phải xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, có năng lực thích ứng và giải quyết tốt các vấn đề đặt ra trong tình hình mới.

Thủ tướng cũng chỉ rõ những những vẫn đề thực tế và những tồn tại hiện nay như trình độ tay nghề của người lao động nói chung còn thấp, năng suất lao động chưa cao, việc làm thiếu bền vững, thu nhập không ổn định; Việc chấp hành pháp luật của nhiều chủ doanh nghiệp chưa nghiêm; Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội nơi có đông công nhân chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là nhà ở; hoạt động công đoàn ở một số doanh nghiệp còn hạn chế, chưa làm tốt nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.

Thủ tướng chỉ rõ, trong những năm tới, điều kiện, môi trường hoạt động công đoàn dự báo có những thay đổi quan trọng, gặp nhiều thách thức hơn trong thời gian tới.
Thủ tướng yêu cầu, Tổng LĐLĐVN tiếp tục phối hợp chặt chẽ, đồng hành cùng Chính phủ, chung sức, đồng lòng triển khai hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XIII của Đảng đề ra, Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn một cách mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt. Chủ động nghiên cứu, đề xuất, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách, nhất là các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho người lao động. Thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, góp phần nâng cao đời sống của người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong tình hình mới.

Tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 17/01/2022 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội công đoàn các cấp và Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2023 - 2028. Xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh, giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có bản lĩnh, trí tuệ, tâm huyết, trách nhiệm, xứng đáng là thủ lĩnh đại diện cho người lao động, để qua mỗi cán bộ công đoàn sẽ xây dựng, bồi đắp niềm tin yêu của đoàn viên, người lao động với tổ chức Công đoàn.

Tiếp tục phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, là cầu nối quan trọng của Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân và người lao động. Tuyên truyền, phổ biến, đưa các nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến với đoàn viên, người lao động; đồng thời chuyển tải, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị của người lao động, doanh nghiệp để có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Quan tâm công tác phát triển đảng viên trong công nhân, người lao động, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước.

TLĐLĐVN tiếp tục phối hợp với bộ, ngành, địa phương thực hiện các biện pháp ổn định, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, bền vững và chăm lo đời sống người lao động; làm tốt công tác giám sát việc thực hiện chế độ lương, thưởng đối với người lao động của người sử dụng lao động.

Thủ tướng đề nghị các ban, bộ, ngành, các cấp ủy, chính quyền các cấp phối hợp với Tổng Liên đoàn và các cấp công đoàn giải quyết kịp thời nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người lao động, nhất là vấn đề ổn định việc làm, nâng cao thu nhập; vấn đề nhà ở, trường học, trạm y tế, nơi vui chơi giải trí; vấn đề chậm đóng BHXH và rút bảo hiểm xã hội một lần; việc tuân thủ chính sách, pháp luật của người sử dụng lao động. Cùng với đó tiếp tục làm tốt công tác đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động; phát động, triển khai các phong trào thi đua vượt khó, “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”,  “Năng suất cao, chất lượng tốt”, “Tham mưu giỏi, phục vụ tốt”; thực hiện Chương trình “Công đoàn Việt Nam đồng hành với Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước”; vận động đoàn viên, người lao động tích cực khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác, góp phần hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.

Về các đề xuất kiến nghị của TLĐLĐVN, Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ, các bộ ngành, cơ quan đơn vị phối hợp giải quyết, nếu vượt quá thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.

Gặp mặt kỷ niệm 55 năm ngày Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Đây là dịp ôn lại truyền thống hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đặc biệt là giá trị trong chiến thắng của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 trên mảnh đất Thừa Thiên Huế.


0 seconds of 2 minutes, 32 secondsVolume 90%
00:25
02:32


Sáng 31/1, tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Quân khu Trị - Thiên tổ chức buổi gặp mặt, giao lưu truyền thống nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (31/1/1968-31/1/2023).

Dự buổi gặp mặt có đại diện lãnh đạo các địa phương: Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, TP.HCM, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Quân khu Trị - Thiên (B4-B5 tại Quân khu 4) và hơn 600 cựu chiến binh, nguyên là các tướng lĩnh, chỉ huy và chiến sĩ từng tham gia, chiến đấu tại chiến trường Trị Thiên - Huế trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cách đây 55 năm, đúng vào ngày 31/1/1968, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã mở đòn tấn công bất ngờ, dũng mãnh, đồng loạt vào hậu phương, căn cứ đầu não của địch ở Sài Gòn và khắp 47 thành thị, vùng nông thôn, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh.

Đặc biệt, quân và dân Thừa Thiên Huế cùng các đơn vị chủ lực của Bộ và Quân khu Trị Thiên đã tiến hành cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, làm chủ thành phố Huế 26 ngày đêm, phá vỡ kế hoạch tác chiến của địch.

Thiếu tướng Võ Văn Chót, Trưởng Ban liên lạc Quân khu Trị - Thiên cho rằng, cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ.   

Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đã trở thành biểu tượng của tinh thần quyết chiến, quyết thắng, khí phách kiên cường, sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; đánh dấu bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam về tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ.

Phát biểu tại buổi gặp mặt, ông Nguyễn Thanh Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, đây là dịp ôn lại truyền thống hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đặc biệt là giá trị trong chiến thắng của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 trên mảnh đất Thừa Thiên Huế.

“Đây là điều kiện để các thế hệ trẻ của Thừa Thiên Huế cũng như các tỉnh trong khu vực quân khu Trị Thiên có thể tiếp tục tìm hiểu, cũng như tăng cường hơn nữa quyết tâm xứng đáng với những hy sinh xương máu của các tướng lĩnh, của các chiến sĩ, của quân và dân Quân khu Trị Thiên trong trận đánh Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968", ông Nguyễn Thanh Bình cho biết./.

Tổng Bí thư: Không để xảy ra tình trạng nghỉ Tết kéo dài, lơ là công việc

[CAND] Tổng Bí thư yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương lập kế hoạch cụ thể năm 2023, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ năm 2023, năm bản lề của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.

Ngày 31/1, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì cuộc họp của Ban Bí thư Trung ương Đảng đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Quý Mão năm 2023; chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm của Trung ương, các cấp ủy trong thời gian tới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các thành viên
Ban Bí thư tại phiên họp. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Theo báo cáo tổng hợp, một trong những điểm mới của Tết năm nay là Ban Bí thư đã sớm ban hành Chỉ thị nên các ban cán sự đảng, đảng đoàn, cấp ủy, chính quyền các cấp kịp thời tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc việc tổ chức Tết Quý Mão phù hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị; chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ nhân dân đón Tết vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm với tinh thần “không để ai không có Tết”, thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống dịch bệnh; duy trì, tạo khí thế mới đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh.

Thị trường hàng hóa phong phú, đảm bảo chất lượng, không để xảy ra tình trạng sốt giá; giao thông, thông tin liên lạc cơ bản thông suốt; an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm có nhiều tiến bộ so với Tết nhiều năm trước.

Các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã thăm, chúc Tết ở 63 tỉnh, thành phố cùng cấp ủy, chính quyền các cấp tặng quà các đối tượng chính sách, người lao động không về quê ăn Tết; chúc Tết, động viên người dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các lực lượng ứng trực làm nhiệm vụ trong dịp Tết.

Chính sách xã hội dịp Tết được thực hiện "đúng, đủ, kịp thời", các địa phương trong cả nước đã dành khoảng 9.500 tỷ đồng hỗ trợ trên 25 triệu lượt người. Đã có 6,5 triệu lượt đoàn viên công đoàn, người lao động được thụ hưởng các hoạt động chăm lo của tổ chức công đoàn với tổng nguồn kinh phí là trên 4.581 tỷ đồng.

Các cấp, ngành, địa phương đã tăng cường tuyên truyền về những thành tựu của đất nước, địa phương; tổ chức phong phú các hoạt động mừng Đảng, mừng xuân, hoạt động văn hóa, thể thao, lễ hội dịp Tết; quốc phòng, chủ quyền biên giới, lãnh thổ, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.

Nhiều địa phương đã xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức lễ phát động "Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ" bảo đảm thiết thực, hiệu quả, không phô trương hình thức. Các địa phương đã sớm có kế hoạch chuẩn bị ra quân, tổ chức sản xuất ngay từ những ngày đầu năm mới với khí thế sôi nổi, nỗ lực cao để hoàn thành các mục tiêu sản xuất, kinh doanh đã đề ra.

Kết luận cuộc họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh cấp ủy, chính quyền các cấp đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị 19-CT/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị số 22/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Tết Quý Mão năm 2023 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm.

“Việc sớm ban hành chỉ đạo đã giúp cấp ủy, chính quyền các cấp kịp thời chuẩn bị tốt các điều kiện để nhân dân vui Xuân đón Tết vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm; tạo không khí phấn khởi, đoàn kết, tương thân tương ái, là tiền đề để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ của năm mới 2023”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Về nhiệm vụ sắp tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý phải tiếp tục dự báo tình hình, nắm chắc các khả năng tình huống có thể xảy ra để có biện pháp đối phó, không chủ quan, lơ là.

Ngay sau nghỉ Tết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và cấp ủy các cấp. Từng cơ quan, đơn vị, địa phương lập kế hoạch cụ thể của năm 2023 để triển khai một cách bài bản, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ của năm 2023, năm bản lề của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu kết luận cuộc họp. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhanh chóng đưa các hoạt động trở lại bình thường, đảm bảo hoạt động công vụ diễn ra thông suốt, phục vụ tốt nhu cầu của nhân dân; không để xảy ra tình trạng nghỉ Tết kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Chuẩn bị đề án, nội dung theo chương trình làm việc năm 2023 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bảo đảm chất lượng, tiến độ đề ra; triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 46-KL/TW của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế vĩ mô và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới; chuẩn bị tốt các chương trình hoạt động đối ngoại trọng điểm đã đề ra.

Các bộ, ngành, địa phương tập trung thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, xây dựng; tập trung chăm sóc tốt vụ lúa Đông-Xuân 2023, chủ động phòng ngừa dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; tiếp tục hỗ trợ một số ngành, lĩnh vực quan trọng bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19 cũng như tác động của thị trường thế giới như dịch vụ, logistics, hàng không, du lịch, dệt may, da giày, sản xuất và chế biến gỗ...;

Các bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đẩy mạnh công tác phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, đánh bạc và các tệ nạn xã hội khác trong dịp lễ hội; thực hiện tốt chế độ, chính sách an sinh xã hội; đặc biệt chú trọng chăm lo đời sống một bộ phận công nhân một số ngành kinh tế đang gặp khó khăn cũng như rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc phức tạp, mâu thuẫn về quyền lợi của công nhân, người lao động, không để kéo dài trở thành "điểm nóng" về an ninh, trật tự; tăng cường cảnh giác, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ...

Tổng Bí thư yêu cầu tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao chất lượng nội dung các chương trình văn hóa, thông tin định hướng, khẳng định thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội của đất nước, địa phương cũng như đấu tranh hiệu quả với những luận điệu sai trái, xuyên tạc, lợi dụng của các thế lực thù địch.

Theo vietnamplus.vn

Vì một nền văn hóa dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học

(TG) - Việc nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng, coi đó vừa như một mục tiêu chiến lược, vừa như một giải pháp chủ đạo, cốt yếu để thực hiện thành công chiến lược phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn dân chủ và khoa học_Ảnh: Tư liệu

1. Ngay từ khi nước nhà chưa giành được độc lập, trong Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phát triển văn hóa và chỉ rõ văn hóa là một trong ba mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa; đồng thời đưa ra đường lối phát triển văn hóa theo 3 nội dung: dân tộc, khoa học, đại chúng.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Đó là một nền văn hóa mang tính đặc thù dân tộc cao. “Thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”, trong đó biết thừa hưởng di sản với những “kinh nghiệm tốt của văn hóa Việt Nam xưa và văn hóa nay”, đồng thời biết “học lấy cái hay, cái tốt của thế giới của Tây phương hay Đông phương”(1). Người cũng chỉ ra rằng: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất là mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa thấm vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ…. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”. Trên tinh thần đó, Người khẳng định sứ mệnh cao cả: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(2).

Qua mỗi chặng đường cách mạng, Đảng ta luônnhận thứcrõ vai trò to lớn của tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thứccũng như yêu cầu cấp bách của việc vận động, tổ chức, định hướng và lãnh đạo để tầng lớp tinh hoa này đem tài năng, trí tuệ phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đảng đã giương cao ngọn cờ chỉ hướng, mở rộng con đường cho đội ngũvăn nghệ sĩ cống hiến tài năng và sức lực, tận hiến cho sự nghiệp cứu quốcvà xây dựng đất nước - với nhiều tác phẩm thực sự trở thành những “tượng đài nhân văn”được ghi nhận và đánh giá cao,là“biên niên sử bằng thơ, ca, nhạc, họa”, “giai điệu tự hào” vang vọng mãi trong tâm hồn các thế hệ.

Đường lối đổi mới của Đảng đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống dân tộc và khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho cho đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Ngay trong thời gian đầu thời kỳ đổi mới, giữa lúc còn muôn vàn khó khăn, hàng loạt tác phẩm văn học và nghệ thuật (VHNT) đặc biệt xuất sắc đã ra đời, vừa như tiếng kèn xung trận, vừa như ngọn đuốc sáng tạo, góp phần cổ vũ nhân dân ta đấu tranh không khoan nhượng với những mặt trái của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp với tư duy và quán tính văn hóa của một thời kỳ giáo điều, bảo thủ;cổ vũ những nỗ lực, tìm tòi đổi mới, đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội.

Hội thảo Văn hóa 2022 với chủ đề “Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa’’, sáng 16/12/2022.

Trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nền văn hóa - văn nghệ của chúng ta vừa có thêm những cơ hội mới nhưng cũng phải đương đầu với nhiều thách thức mới, trong đó, gian nan nhất chính là cuộc “lột xác”, tự đổi mới để vươn lên xứng tầm với dân tộc và thời đại mà không bị lạc đường, chệch hướng trong diễn biến phức tạp khôn lường của cơ chế thị trường.

Sự nghiệp đổi mới của chúng tađã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(3), trong đó có đóng góp của giới văn nghệ sĩ, trí thức.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định “xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” là một trong những phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, theo đó cần “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Đây là chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng. Trước đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước cũng xác định “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc …”(4). Theo đó, mục tiêu cụ thể số một của chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam gắn với phát triển con người Việt Nam là hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam.

2. Một trong những chức năng quan trọng của VHNT là giáo dục. Thông qua giáo dục mà các giá trị cốt lõi của xã hội, của dân tộc, của nhân loại được nhận thức, thẩm thấu, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và lan tỏa trong xã hội; đồng thời, những giá trị tốt đẹp sẽ không ngừng bồi đắp, nuôi dưỡng và củng cố nhân cách của cá nhân và cộng đồng.

Dưới hình thức văn học dân gian, văn học đã tham gia giáo dục, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa con người từ tuổi ấu thơ qua lời ru của mẹ, lời răn dạy của cha, chuyện kể của ông bà và những trò chơi dân gian phong phú. Đến khi tới trường, các tác phẩm VHNTtiếp tục đóng vai trò giáo dục rất quan trọng, không chỉ giới hạn trong các môn học ngữ văn, lịch sử, đạo dức, giáo dục công dân mà còn qua nhiều nội dung của các hoạt động giáo dục khác nhau. Bệ đỡ cho hai môi trường giáo dục nói trên chính là giáo dục xã hội, mà ở đó các tác phẩm VHNTchính là “món ăn tinh thần”, không chỉ thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giải trí mà còn nuôi dưỡng, bồi đắp nhân cách, năng lực văn hóa, năng lực xã hội, chăm lo nền tảng đạo đức xã hội - tức là thông qua nhiều cách thức để can thiệp, định hướng hệ giá trị, sàng lọc giá trị, bồi đắp những giá trị truyền thống tốt đẹp, giảm thiểu và loại bỏ dần những giá trị không phù hợp, khuyến khích và nuôi dưỡng sự hình thành những giá trị mới, tiến bộ…

VHNT không chỉ phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, thái độ của quần chúng, tức là không chỉ nói thay tiếng nói của nhân dân bằng ngôn ngữ VHNT. Cao hơn thế, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” - VHNT hướng quần chúng, dẫn dắt nhân dân vươn tới những giá trị cao quý, tương lai tươi sáng và khát vọng chân chính.

3. Có thể nói, từ sau Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, giới văn nghệ sĩ nước nhà thoát ra khỏi tình trạng bế tắc; cùng dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc. Ở đó, bằng tài năng văn chương, nghệ thuật xuất sắc, thế hệ văn nghệ sĩ hiện đại tiên phong đã có những cống hiến rất đặc biệt, tiêu biểu như những sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Văn Cao, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu.v.v..

Trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc, giới văn nghệ sĩ nước nhà đã luôn đồng hành cùng toàn dân, dũng cảm, hy sinh, tạo ra một giá trị tinh thần to lớn với hàng ngàn tác phẩm VHNT, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNXH. Thành tựu to lớn, toàn diện và đóng góp có tầm vóc, có ý nghĩa lịch sử của văn nghệ sĩ vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng chế độ mới trong suốt 30 năm (1945-1975) đã được Đảng và nhân dân trân trọng ghi nhận.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, nền văn hóa, VHNT Việt Nam đã có những bước chuyển mình sâu sắc, mạnh mẽ và khá toàn diện với những thăng trầm đáng ghi nhớ và những bài học đáng suy ngẫm.

Nhìn lại gần bốn thập niên đổi mới đất nước, chúng ta đều có thể thấy rằng đó là những chặng đường đầy chông gai, khó khăn phức tạp bộn bề và cả những thách thức sống còn đối với vận mệnh của quốc gia, của chế độ. Vượt qua tất cả những thách thức, hiểm nguy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã làm nên những kỳ tích mới.

Thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận, đồng thời là “trận địa” không kém phần khốc liệt đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà.

Dưới tác động từ những mặt trái của cơ chế thị trường, nền VHNT nước nhà dường như đã bị biến dạng, tỏ ra rất bỡ ngỡ, lúng túng và bị động trong quá trình hội nhập; dường như chưa đủ bản lĩnh để tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu có thêm đời sống văn hóa của nhân dân, tăng cường “kháng thể văn hóa” của dân tộc. Vì thế, việc tiếp thu ảnh hưởng văn hóa bên ngoài của một bộ phận không nhỏ nhân dân, đặc biệt là giới trẻ, bị sa vào xu hướng xô bồ, nhất là trong các lĩnh vực giải trí. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có những giải pháp đủ mạnh và hiệu quả để quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới, để văn hóa góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nói như thế, hoàn toàn không có ý phủ nhận những nỗ lực, thành tựu và đóng góp của giới văn nghệ sĩ vào sự nghiệp đổi mới của dân tộc, mà chỉ muốn nhìn thẳng vào sự thật, chỉ ra những hạn chế, bất cập để cùng nhau tiến lên.

Thực tế là trong những thập kỷ vừa qua, đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà cũng đã không ngừng nỗ lực, tìm tòi, thử nghiệm, tìm ra hướng đi mới, cách tiếp cận mới, những ngôn ngữ nghệ thuật mới phù hợp hơn với yêu cầu mới của xã hội và thời đại. Đã có những thử nghiệm táo bạo, đưa đến thành công và cả chưa thành công trong các lĩnh vực sân khấu, ca nhạc, điện ảnh, mỹ thuật, múa...

Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục dành cho sự nghiệp văn hóa-văn nghệ và giới văn nghệ sĩsự quan tâm đặc biệt. Trong đó, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có thể coi là cương lĩnh văn hóa mới của Đảng, mở đường cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW(2008) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới nêu rõ: “Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…”. Nghị quyết số 33-NQ/TW (năm 2014) xác định “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.”(5)… Gần đây nhất, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn…”.

4. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan của hiện tượng “chững lại” và thực trạng VHNT Việt Nam những năm vừa qua. Quan sát rộng ra, có thể thấy những gì nền VHNT của chúng ta đã và đang trải qua cũng đã và đang diễn ra ở nhiều nước và khu vực trên thế giới. Tức là, có những vấn đề mang tính quy luật, khó tránh khỏi. Nguyên nhân sâu xa là những chuyển biến sâu sắc, rộng rãi và mau lẹ của thế giới trong kỷ nguyên “hậu hiện đại” và toàn cầu hóa. Ở đó các hệ giá trị truyền thống, bao gồm cả những giá trị phổ quát của nhân loại đã và đang bị thách thức nghiêm trọng, có những giá trị bị đảo lộn, xói mòn, thậm chí bị phủ nhận. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin - truyền thông, quan niệm “sống gấp” và muôn vàn hình thức kết nối toàn cầu đã khiến cho những sự cọ xát về giá trị, những trào lưu văn hóa, văn chương, nghệ thuật “mới”, “độc”, “lạ”, “phi biên giới” nhanh chóng lan truyền khắp toàn cầu, mạnh mẽ và áp đảo hơn bất kỳ giai đoạn nào trước đây.

Về chủ quan, cần nêu ra một số nguyên nhân quan trọng như sau:

Một là, về nhận thức. Không chỉ các cấp quản lý, ngành, địa phương, mà ngay cả cộng đồng và thậm chí trong gia đình còn chưa thực sự quan tâm, chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của văn hóa nói chung, VHNT nói riêng. Trong chặng đầu của thời kỳ đổi mới, điều này có thể cảm thông được khi chúng ta phải dồn góp toàn lực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ổn định chính trị và giữ vững quốc phòng, an ninh nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Nhưng sau đó, cả một thời gian dài, dưới áp lực tăng trưởng và tác động của kinh tế thị trường, toànxã hội vẫn đặt ưu tiên tuyệt đối cho các mục tiêu kinh tế mà “bỏ quên” văn hóa.

Hai là, về cơ chế lãnh đạo, quản lý. Chúng ta chưa có cơ chế phù hợp và hữu hiệu để đưa các chủ trương của Đảng, chiến lược và chính sách của Nhà nước vào cuộc sống. Nói cho chính xác, điều chúng ta đang thiếu là cơ chế hiệu quả, đủ mạnh, có năng lực thích ứng cao với sự biến đổi toàn cầu và với cơ chế thị trường, phù hợp với yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Thay vào đó là cơ chế chi phối sự vận hành của nền VHNT vừa vẫn mang nặng dấu ấn tập trung, quan liêu, bao cấp, vừa lai tạp những yếu tố tự phát kiểu “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường, khiến cho các nỗ lực đổi mới trở nên nửa vời, kém hiệu quả, thậm chí lệch chuẩn, lạc hướng.

Ba là, nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hóa, VHNT còn rất thấp. Điều này thực chất bắt nguồn từ hai nguyên nhân nêu trên, khiến cho nguồn lực đầu tư vừa rất nhỏ, chưa đa dạng hóa; thiếu trọng tâm trọng điểm, manh mún, cào bằng. Nguồn lực tái sinh để tái đầu tư từ chính sự nghiệp phát triển văn hóa, do phát triển công nghiệp văn hóa đưa lại cũng còn rất hạn chế.

Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Trong ảnh: Đua thuyền trong lễ hội truyền thống chùa Bạch Hào, tỉnh Hải Dương)_Ảnh: Tư liệu

Bốn là, thiếu sự chủ động, năng động, sáng tạo của các tổ chức và cá nhân văn nghệ sĩ. Phần đông văn nghệ sĩ còn thụ động, chưa dấn thân và chưa theo kịp sự biến đổi của thực tiễn ở trong nước và thế giới; một số thích nghi tương đối tốt với cơ chế thị trường nhưng lại sớm bộc lộ những khuynh hướng chạy Theo các thị hiếu tầm thường, theo lợi ích cá nhân, trước mắt...

Trên cơ sở nêu trên, xin đề xuất một số giải pháp để VHNTcó những đóng góp tương xứng hơn với kỳ vọng của Đảng và nhân dân trong nỗ lực chung xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thấm nhuần tinh thần dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học:

Thứ nhất, cần đặt toàn bộ sự nghiệp phát triển VHNT vào trong chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa quốc gia.

Dẫu còn có những ý kiến khác nhau về “tính hai mặt” của công nghiệp văn hóa thì phát triển công nghiệp văn hóa vẫn là lựa chọn tất yếu, không thể từ nan của các quốc gia - dân tộc. Chủ trương phát triển công nghiệp văn hóa của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn.Vấn đề là phát triển công nghiệp văn hóa như thế nào?

Đương nhiên, công nghiệp văn hóa là một phần của kinh tế thị trường và nguyên tắc số một là phải tuân thủ quy luật của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, không được quên rằng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền văn hóa Việt Nam phải đảm bảo tính tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có nghĩa là chúng ta không được phép thả nổi toàn bộ lĩnh vực công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo cho sự điều tiết tự phát của kinh tế thị trường theo nguyên tắc “bàn tay vô hình”. Cần phải nghiên cứu và khu biệt những phân khúc của từng loại hình VHNT; từng nhóm, loại chủ đề, vấn đề và từng nhóm văn nghệ sĩ để có phương án tổ chức, lãnh đạo, quản lý, hỗ trợ đầu tưđúng tầm đúng hướng. Đây là nguyên tắc mà nhiều nước, kể cả những nước không theo chế độ XHCN đã và đang thực hiện.

Mặt khác, cần có những giải pháp mangtính nguyên tắc để bảo vệ người đọc, người nghe, người xem, người hưởng thụ trước những sản phẩm không phù hợp, độc hại, nhất là những sản phẩm nhập ngoại.

Quan trọng nhất là phải tăng cường năng lực hưởng thụ tác phẩmVHNTcủa các tầng lớp nhân dân. Đây là giải pháp hướng tới mục tiêu “kép”, vừa đảm bảo phúc lợi văn hóa của nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách thụ hưởng văn hóa của người dân thuộc các vùng miền, các nhóm xã hội khác nhau; đồng thời mở rộng và phát triển thị trường bền vững cho công nghiệp văn hóa Việt Nam.

Thứ hai, chú trọng đến giải pháp giáo dục.

Đây là biện pháp hữu hiệu nhất, bền vững nhất để gây ảnh hưởng, tác động tích cực lên hệ giá trị, nền tảng đạo đức, lối sống cũng như thái độ và ứng xử văn hóa của con người. Toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân. Trong quá trình đó, những môn học liên quan đến VHNTđã được quan tâm, đổi mới hơn so với trước đây. Tuy nhiên, giáo dục VHNTở môi trường gia đình và xã hội lại đang có những bất cập, phức tạp. Nhiều thế hệ cha mẹ trẻ hiện nay không còn biết hát ru, không thuộc ca dao, cổ tích… Bởi họ vốn lớn lên bằng truyện tranh, nhạc và phim nhập khẩu từ nước ngoài, hoặc đơn giản là họ không có thời gian cho giáo dục con trẻ. Trong xã hội thì game online, mạng xã hội và nhiều tác nhân khác, vì mục đích kiếm tiền, đã không ngừng nhả ra các “nọc độc” phản văn hóa, phi văn hóa. Vì vậy, cấp bách nhất vẫn phải là hoàn thiện thể chế để đảm bảo kỷ cương, tạo môi trường cho VHNT có thể “khuyến thiện, trừng ác” theo chức năng, nhiệm vụ cao cả của mình.

Thứ ba, chăm lo hơn nữa cho đội ngũ văn nghệ sĩ trong điều kiện mới.

Yếu tố căn cốt nhất làm nên con người văn nghệ sĩ là tài năng và năng khiếu. Thiếu yếu tố này thì dứt khoát không thể trở thành văn nghệ sĩ đích thực. Vì thế, tài năng và năng khiếu của văn nghệ sĩ cần phải được phát hiện sớm, được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng bài bản và chu đáo; được bảo vệ, tôi luyện và trọng dụng trong môi trường thuận lợi. Đây chính là nhóm giải pháp cốt lõi nhất để đội ngũ văn nghệ sĩ - những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” phát huy tài năng, tâm huyết; dấn thân và cống hiến hết mình cho Tổ quốc và nhân dân; mang lại lợi ích cùng những giá trị chân - thiện - mỹ cho xã hội./.

PGS. TS. Nhạc sĩ ĐỖ HỒNG QUÂN

Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam

_______________________

(1) Hồ Chí Minh - Bàn về công tác Văn hóa văn nghệ. Nxb.Sự thật, H, 1971, tr.71-72.

(2) Báo Cứu quốc, số 416, ra ngày 25/11/1946.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.25.

(4) (5) Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...