(TG) - Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là một nữ chiến sỹ cộng sản tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ, Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Một trong những đóng góp của đồng chí là thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ mau tới thành công, thông qua việc vận động phụ nữ tham gia và trực tiếp lãnh đạo, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng.
Thẻ đại biểu của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tham dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 7 năm 1935. Ảnh tư liệu
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai sinh ngày 30/9/1910, trong một gia đình viên chức nghèo tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, Nghệ An, một vùng quê giàu truyền thống cách mạng.
Sớm tiếp thu truyền thống quê hương, gia đình, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng, mới 16 tuổi, Nguyễn Thị Minh Khai đã tích cực tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1927, ở tuổi 17, Nguyễn Thị Minh Khai đã được chính thức kết nạp vào tổ chức Việt Nam cách mạng Đảng (tên gọi mới của Hội Phục Việt)(1); đồng thời, chịu ảnh hưởng nhiều về đường lối và phương thức hoạt động của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập.
Từ thực tiễn
hoạt động đấu tranh cách mạng, Nguyễn Thị Minh Khai đã nhanh chóng trở thành
một cán bộ cốt cán trong phong trào cách mạng: Bí thư Phụ nữ đoàn và tham gia
Ban thường vụ Tỉnh ủy Tân Việt tỉnh Nghệ An (1929), thành viên tổ chức Đông
Dương Cộng sản Đảng (6/1929). Đồng chí đã luôn năng động, tích cực, sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn của phong trào công nhân ở Vinh và công tác tuyên
truyền, vận động phụ nữ ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy. Chính vì vậy,
đến năm 1928 “phụ nữ đoàn” phát triển thêm được 50 người; đặc biệt, số chị em
phụ nữ tham gia các tổ chức quần chúng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ ngày càng
đông, góp phần thúc đẩy quá trình hợp nhất các tổ chức Đảng, thành một chính
Đảng duy nhất để tập hợp lực lượng.
Khi Đảng Cộng
sản Việt Nam thành lập, trở thành đảng viên của Đảng, Nguyễn Thị Minh Khai tiếp
tục đảm trách công tác tuyên truyền, vận động, huấn luyện phụ nữ, đảng viên ở
khu vực Trường Thi, Bến Thủy (Nghệ An), tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng. Đồng chí
đã tích cực tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia đấu tranh cách mạng và tổ
chức nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho Đảng. Đây cũng chính là lực lượng
nòng cốt trong Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930 - 1931.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai - một trong những cán bộ kiên cường lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân tham gia cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 11/1940. Ảnh: T.L |
Trong thời
gian chờ Đại hội VII khai mạc (cuối 1934 - 7/1935), theo Chỉ thị của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh Khai vào học Trường Đại học Phương Đông để nâng
cao trình độ lý luận và kiến thức phục vụ lý tưởng cao cả và sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
Tiết mục sân khấu hóa hình tượng Liệt sĩ- nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn, Chợ Lớn Nguyễn Thị Minh Khai. Ảnh: Phương Vy-TTXVN |
Tại diễn đàn Đại
hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong phiên họp thứ 40, ngày 16/8/1935,
Nguyễn Thị Minh Khai với bí danh Phan Lan đã có tham luận với nội dung
lên án, tố cáo chế độ thực dân, phong kiến đã thi hành chính sách tàn bạo, dã
man đối với nhân dân Đông Dương, nhất là đối với phụ nữ; nêu bật vai trò của
phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng phụ nữ. Tham luận đã khẳng định: “Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong
cuộc đấu tranh cho hòa bình, cho sự thành lập mặt trận thống nhất chống bọn gây
chiến”(3). Tiếp đó, tại Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên (tháng
9, 10/1935), Nguyễn Thị Minh Khai đã tham dự, phát biểu nêu rõ tình cảnh, những
hoạt động và nhiệm vụ trước mắt của thanh niên trong đó có nữ thanh niên Đông
Dương. Các tham luận của Nguyễn Thị Minh Khai đã nhận được sự hoan nghênh của
các đại biểu tham dự đại hội, đồng thời góp phần giúp Quốc tế Cộng sản hiểu rõ
hơn tình hình thực tế, tình cảnh của người dân thuộc địa, đặc biệt là thanh
niên và phụ nữ. Từ đó đặt ra nhiệm vụ cho các đảng cộng sản cần phải quan tâm
hơn nữa đến vấn đề thanh niên và phụ nữ ở các thuộc địa.
Sau khi tham dự các Đại hội của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Thị
Minh Khai ở lại Liên Xô tiếp tục học tập tại Trường Đại học Phương Đông khoảng
một năm. Đầu năm 1937, đồng chí về Sài Gòn hoạt động, được bổ sung vào Xứ ủy
Nam Kỳ. Cùng với các đồng chí trong Xứ ủy, Nguyễn Thị Minh Khai đã tích cực
hoạt động không ngừng, bám sát cơ sở, tổ chức các cuộc đấu tranh ở thành phố.
Cuối năm 1937, đồng chí được Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định giữ chức Bí thư Thành ủy Sài
Gòn - Chợ Lớn và trở thành một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng
1938-1939 ở Sài Gòn. Đồng chí đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Ba
Son, công nhân Công ty Hỏa Xa Sài Gòn, của công nhân và phụ nữ Hóc Môn, Gia
Định; mở nhiều lớp huấn luyện cho cán bộ ở thành phố và các lớp huấn luyện cho
cán bộ nữ ở các tỉnh Nam Bộ; viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng làm rõ đường lối,
chủ trương của Đảng về vấn đề chống phản động thuộc địa, chống phong kiến và
vận động phụ nữ tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Những luận điểm sắc sảo, lý luận chặt chẽ trong các bài viết của
đồng chí như: “Nếu mỗi người đều lấy việc nuôi
con làm trách nhiệm tột bực mà bỏ công việc xã hội thì công việc giải phóng phụ
nữ không biết đến đời nào sẽ thực hiện được? Phụ nữ giải phóng là công việc của
toàn thể phụ nữ đồng thời cũng là nhiệm vụ chung của mọi người”(4) đã
trực tiếp chống lại thuyết
“Phụ nữ hồi gia”, vạch rõ nhiệm vụ
quan trọng của giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng nam nữ, từng bước nâng
cao nhận thức và thúc đẩy hành động cách mạng cho chị em phụ nữ. Từ đó, số
lượng phụ nữ hăng hái tham gia các cuộc vận động, các phong trào cách mạng do
đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai khởi xướng ngày càng đông. Các bà, các chị không
phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, đã tích cực góp sức người, sức của cho các
phong trào học chữ quốc ngữ, nâng cao trình độ,thúc đẩy phong trào đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ ở Nam Kỳ ngày càng phát triển.
Tháng 11/1937,
đồng chí Lê Hồng Phong - Thư ký Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng và cũng là
người chồng thương yêu của Nguyễn Thị Minh Khai về hoạt động tại Sài Gòn - Chợ
Lớn. Hai vợ chồng đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong có điều kiện
được ở bên nhau. Tuy nhiên, đặt lợi ích của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc lên trên hết, các đồng chí dành thời gian chủ yếu cho công việc của tổ chức
và không được ở cùng nhà, mà chỉ thỉnh thoảng mới được gặp nhau.
Đầu năm 1940,
Nguyễn Thị Minh Khai sinh con gái đầu lòng Lê Nguyễn Hồng Minh. Hạnh phúc của
buổi đầu làm mẹ, như bao người phụ nữ, người mẹ Việt Nam khác, đồng chí rất yêu
thương con, muốn được trực tiếp chăm sóc, che trở cho con. Tuy nhiên, do yêu
cầu của thực tiễn cách mạng, Nguyễn Thị Minh Khai đã phải nén lòng hy sinh tình
mẫu tử thiêng liêng, gửi con gái còn đỏ hỏn, cho cơ sở cách mạng - gia đình ông
bà Dương Bạch Mai nuôi, để tập trung hoạt động cách mạng. Đồng chí đã hy sinh
tình riêng để đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết,
trước hết.
Ngày 30/7/1940,
đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai không may bị sa vào tay giặc. Nhà tù thực dân đã
dùng nhiều hình thức tra tấn hết sức dã man, tàn bạo nhưng không thể lay chuyển
tinh thần, ý chí cách mạng trong con người Nguyễn Thị Minh Khai. Đồng chí đã
lấy máu mình viết lên cánh cửa xà lim ở khám Catina những dòng bất khuất: “Dù
đánh, dù treo, càng cương quyết; Dù kìm, dù kẹp, chẳng sai lời. Hy sinh phấn
đấu vì nhiệm vụ. Triệt để thực hành chết mới thôi”.
Không khuất phục
được Nguyễn Thị Minh Khai, thực dân Pháp đưa đồng chí ra tòa án thực dân
xét xử. Trải qua 4 phiên tòa (2 phiên tòa dân sự và 2 phiên tòa quân sự),
chính quyền thực dân Pháp kết án đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai 7 lần, trong đó
có 2 án tử hình do tòa án binh xử với tội danh chúng gán cho là “xúi giục dân
chúng làm rối loạn quốc gia” và “mưu toan lật đổ chính phủ”. Đồng chí vẫn bình
thản trước âm mưu tàn bạo của kẻ thù. Tại tòa án của thực dân, đồng chí Nguyễn
Thị Minh Khai đã mạnh mẽ bác bỏ mọi luận điệu sai trái, những bất công, phi lý
của tòa án thực dân bằng những lời lẽ đanh thép: “Nước của tôi, cứu nước là có
tội, cướp nước mà không có tội sao?”(5) và khẳng định: “Chúng
mày sẽ không thể nào giết hết được những người cách mạng Việt Nam, cũng không
tài nào dập tắt được cách mạng Việt Nam... Cách mạng Việt Nam sẽ thắng”(6).
Ngày 28/8/1941,
đồng chí đã oanh liệt hy sinh trước mũi súng quân thù. Đồng chí hy sinh
nhưng tinh thần, ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, hạnh phúc
của nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ vẫn còn vang vọng mãi tới ngày
nay.
Cuộc đời đồng
chí Nguyễn Thị Minh Khai tuy ngắn ngủi (31 tuổi) nhưng đã thể hiện tấm gương
kiên trung của người phụ nữ Việt Nam. Đồng chí đã vượt qua mọi khó khăn, gian
nguy thử thách để đi theo và kiên định lý tưởng cao cả vì nước, vì dân, vì sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Đồng thời, hoạt động và cống hiến của đồng chí đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã thể hiện rõ
tấm gương đạo đức cao cả theo người thầy vĩ đại Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Đồng chí đã thực hiện triệt để phương châm đạo đức chí công vô tư, đặt lợi ích
của dân tộc lên trên hết, trước hết, hy sinh lợi ích cá nhân, hy sinh tình
riêng, tình mẫu tử vì sự nghiệp lớn lao của dân tộc.
Trong
giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều đổi thay,
mục tiêu hướng tới của sự nghiệp cách mạng cũng có nhiều thay đổi từ đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tới mục tiêu:
“bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”(7). Đặc biệt, vai trò, vị thế của phụ nữ đã ngày càng được
nâng lên. Phụ nữ không chỉ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của phong kiến, thực
dân mà còn vươn lên làm chủ cuộc sống của chính mình. Phụ nữ ngày càng bình
đẳng với nam giới từ trong luật pháp tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham chính ngày càng tang(8). Tuy
nhiên, trong điều kiện mới, việc nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ, thực hiện
giải phóng triệt để phụ nữ vẫn là vấn đề được đặt ra.
Soi rọi từ quan
điểm, hoạt động cách mạng và tấm gương hy sinh vì nước, vì dân, vì sự nghiệp
giải phóng phụ nữ của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, chúng ta có thể học được
nhiều bài học quý báu.
Thứ nhất, giải phóng phụ nữ là sự nghiệp chung của
toàn xã hội, do đó để nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ trong điều kiện mới
cần có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bên
cạnh chủ trương đúng đắn, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới làm căn cứ trong hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, cần phát
huy vai trò nỗ lực vươn lên của nữ giới. Đây là quan điểm đã thể hiện rõ trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các bài nói, viết của đồng chí Nguyễn Thị Minh
Khai. Trong điều kiện mới, bản thân phụ nữ cần tiếp tục nỗ lực nhiều mặt để
vượt qua mọi rào cản, thách thức đấu tranh vì quyền bình đẳng và sự tiến bộ của
bản thân cũng như của giới mình như: không ngừng nỗ lực học tập, nâng cao trình
độ, kiến thức mọi mặt; chủ động về công việc, tự lập về kinh tế; phải luôn có ý
thức phấn đấu kết hợp hài hòa giữa tiến bộ nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình;
phải biết chủ động đấu tranh cho quyền lợi của bản thân, tự tin vào năng lực,
khả năng của chính mình; biết vượt lên chính mình để xóa bỏ suy nghĩ “tự ti”,
“an bài của số phận”
Thứ ba, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần
thực hiện tốt đạo đức cách mạng trong sáng, cần biết đặt lợi ích chung lên trên
lợi ích riêng, hướng tới xây dựng một xã hội bình đẳng, đoàn kết, phát triển,
văn minh và giàu mạnh.
Đồng chí Nguyễn
Thị Minh Khai đã đi xa gần 80 năm, nhưng những quan điểm về giải phóng phụ nữ,
hoạt động cách mạng và tấm gương đạo đức cao cả của đồng chí vẫn còn giá trị lý
luận và thực tiễn sâu sắc./
TS. Trần Thị Huyền
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
__________________
(1) Hội Phục Việt ra đời ngày 14/7/1925. Trong quá trình tồn tại
Hội đã nhiều lần thay đổi tên gọi khác nhau: Hưng Nam (3/1926), Việt Nam Cách
mạng Đảng (hè 1926); Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội (7/1927 ); Tân Việt Cách
mạng Đảng (gọi tắt là Tân Việt, 14/7/1928) (Trần Hữu Chương: Tân Việt Cách mạng Đảng (Hồi
ký), bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng).
(2) 6 đại biểu gồm: Lê Hồng Phong (Lítvinốp), Nguyễn Thị Minh
Khai (Thị Vai), Hoàng Văn Nọn (Cao Bằng) và ba đại biểu nữa (Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.5, tr.203)
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.5, tr.346-347.
(4) Bài viết Đàn bà con gái nhà Nam đăng
trên tuần báo Đọc báo Dân chúng (số ra ngày
14/9/1938 và 24/9/1938)
(5) Dẫn theo Nguyễn Thế Kỷ: Nguyễn Thị Minh Khai người con ưu tú của quê hương Nghệ An,
in trong sách: Nguyễn Thị Minh Khai - Nữ chiến
sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2015, tr.26.
(6) Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Ban Tuyên huấn Trung ương: Nữ chiến sĩ cách mạng-chị Minh Khai,
H, 1951, tr.16.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình đại hội XII của Đảng, tháng
2/2020, tr.12
(8) Tỷ lệ nữ đại
biểu Quốc hội khóa XI là 27,31%, khóa XII là 25,76% và khóa XIII là 24,4%, khóa
XIV là 26,72%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét