Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

Tổng Bí thư: Cuộc sống sung túc, hạnh phúc cho người dân mới là thành công thực tế của Đại hội!

Sáng 1/2/2021, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp phiên bế mạc. Chương trình phiên bế mạc thông qua một số vấn đề trong các Văn kiện Đại hội; nghe báo cáo kết quả bầu cử Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; ra mắt Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII; thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.



Phát biểu bế mạc Đại hội XIII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khái quát, sau hơn 7 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng, nhân dân và đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, hoàn thiện tất cả các nhiệm vụ, nội dung, kết thúc sớm hơn gần 2 ngày so với kế hoạch đề ra.

Đại hội đã thảo luận thẳng thắn, dân chủ, trách nhiệm, thông qua các dự thảo văn kiện Đại hội (5 văn kiện). Đại hội đã bầu ra 200 người, tiêu biểu, đại diện cho hơn 5 triệu Đảng viên để gánh vác trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó.

Các văn kiện Đại hội được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình, kết tinh tinh thần, trí tuệ của toàn đảng, toàn quân, toàn dân, gắn với việc tổng kết 35 năm đổi mới, đề ra kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm tới, tầm nhìn 10 năm và chiến lược phát triển đất nước đến năm 2045. Mục tiêu tổng quát đưa ra là nâng cao năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc, phấn đấu để đến giữa thế kỷ 21 Việt Nam thành nước phát triển theo định hướng XHCN.

Đảng thống nhất kiên định con đường định hướng XHCN, đồng thời nhấn mạnh Đảng phải tăng cường xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, hiệu lực hiệu quả, cụ thể hóa, triển khai đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ và tính chiến đấu của các tổ chức Đảng, từng Đảng viên, trong đó đặc biệt chú trọng cán bộ đứng đầu các cấp, cán bộ cấp chiến lược.

Đại hội chân thành cảm ơn và đánh giá cao đóng góp to lớn của các Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII không tiếp tục ứng cử, tham gia khóa XIII.

Đại hội đã thực hiện nghiêm túc, đúng điều lệ Đảng, sáng suốt bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII để lãnh đạo Đảng, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề ra Ban chấp hành sẽ toàn tâm toàn sức phụng sự nhân dân, đất nước, rèn luyện bản thân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

“Đến giờ phút này, có thể vui mừng báo cáo với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân rằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp” – Tổng Bí thư gửi lời cảm ơn tới toàn bộ cán bộ, Đảng viên, nhân sĩ trí thức và nhân dân cả nước đã tham gia nhiệt tình, trách nhiệm, đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, thành công rất tốt đẹp của Đại hội Đảng lần này sẽ cổ vũ toàn Đảng, toàn dân để phân đấu vượt mọi khó khăn thách thức, đưa đất nước phát triển thành nước giàu mạnh theo định hướng XHCN.

Tổng Bí thư yêu cầu tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong toàn dân về thành công của Đại hội, khẩn trương xây dựng, cụ thể hóa chiến lược hành động để sớm đưa Nghị quyết đại hội vào cuộc sống, biến chủ trương chính sách thành hiện thực sinh động trong cuộc sống.



Tổng Bí thư phân tích nhấn mạnh, việc đưa lại cuộc sống sung túc, hạnh phúc cho người dân sau đây mới là thành công thực tế của Đại hội. Tổng Bí thư nêu thực tế, hiện tượng thiếu trách nhiệm, thiếu hành động trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng đã từng thể hiện, dẫn tới việc Đảng phải kỷ luật những người làm sai, làm hỏng, làm trái nghị quyết của Đại hội.

Tổng Bí thư bày tỏ quyết tâm và niềm tin nhiệm kỳ khóa XIII này phải làm tốt hơn nhiệm kỳ khóa XII.

Nguồn: Tổng hợp

  

Đại hội XIII của Đảng: Kỳ Đại hội đặc biệt mang tính lịch sử

Một kỳ Đại hội với văn kiện có tính tổng kết không chỉ một nhiệm kỳ và đặt ra tầm nhìn đến giữa thế kỷ; chọn lựa nhân sự sau “quy trình 5 bước”, “2 vòng 8 bước” và những cuộc họp khẩn bên lề về phòng, chống Covid-19.



Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng hôm nay (1/2/2021) bế mạc, kết thúc sớm hơn một ngày so với chương trình dự kiến được thông qua ở phiên trù bị. Với phương châm “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Sáng tạo – Phát triển”, Đại hội đánh dấu một kỳ Đại hội đặc biệt, một sự kiện mang tính lịch sử.

Tầm nhìn đến giữa thế kỷ

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc, đồng bào và dân tộc ta không chỉ trong giai đoạn 5 năm 2021 – 2025 mà cho cả những thập niên tới, cho những thế hệ tương lai của đất nước với những mục tiêu rất cụ thể, tầm nhìn dài tới tận giữa thế kỷ.

Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế – xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.

Đại hội được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đạt được nhiều thành quả rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; góp phần tô đậm những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020. Đồng thời, Đại hội cũng thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn hạn chế, những vấn đề cần khắc phục, vượt qua cho giai đoạn 5 năm tiếp theo, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.

Chính vì vậy mà Văn kiện trình Đại hội được chuẩn bị công phu, nhiều vòng, kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đại hội cũng dành một ngày rưỡi để thảo luận về những nội dung này.

36 đại biểu thuộc các đoàn đại biểu, các đảng bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan phát biểu ý kiến tại hội trường và 788 ý kiến phát biểu tại Đoàn cho thấy một không khí sôi nổi, với góc tiếp cận đa chiều từ vấn đề ở Trung ương tới địa phương, từ “hiến kế” xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám nói vì lợi ích chung đến nâng cao đời sống nhân dân, quan tâm đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng tộc thiểu số; từ yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, chuyển đổi số đến hoá giải “lời nguyền nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ” bằng quan điểm “chim sẻ hợp lực sẽ không kém đại bàng”…

“Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” – như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước một lần nữa khẳng định khi trình bày Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII.  Song chúng ta sẽ còn phải phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức mới để đạt nhiều thành tựu hơn nữa. Tất cả tâm huyết, mục tiêu và quyết tâm đó đều được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng là sự kiện mang tính lịch sử, mở ra một chặng đường mới trong phát triển của Việt Nam, hướng đến xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Quy trình đặc biệt chọn ra đội ngũ tinh hoa

Công tác nhân sự – là nội dung mà bất kỳ Đại hội nào cũng đều có sự chuẩn bị bài bản, kỹ lưỡng, thận trọng trên tinh thần dân chủ, minh bạch, khách quan, bởi “cán bộ là then chốt của then chốt”, là yếu tố quyết định thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội. Với Đại hội XIII của Đảng, công tác nhân sự có nhiều điểm đặc biệt và đã thành công với kết quả tốt đẹp.



Trong 180 uỷ viên chính thức và 20 uỷ viên dự khuyết được Đại hội tín nhiệm bầu vào Ban Chấp hành khoá XIII có 120 là Ủy viên Trung ương tái cử, 80 Ủy viên trúng cử lần đầu. Tính theo cơ cấu có 70 Ủy viên chính thức và 16 Ủy viên dự khuyến là lãnh đạo các tỉnh, thành; 15 Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; 19 nữ, 12 người dân tộc thiểu số. Về độ tuổi, số uỷ viên từ 51-60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 124 người, dưới 50 tuổi có 40 người và trên 60 tuổi có 16 người.

10 trường hợp “đặc biệt”, cả với Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương khoá XII tái cử và người lần đầu tham gia Trung ương – tức quá tuổi so với phương hướng độ tuổi nhân sự Đại hội XIII cũng đều trúng cử với tín nhiệm cao.

Ban Chấp hành Trung ương khoá mới cũng đã họp phiên thứ nhất, bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII.

Kết quả trên thể hiện sự thống nhất rất cao và thành công của công tác nhân sự xuất phát từ quy trình đặc biệt với 5 bước lựa chọn nhân sự tái cử và lần đầu tham gia cấp uỷ, thể hiện rất cụ thể trong Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị.

Thông qua quy trình 5 bước đã sàng lọc, lựa chọn được những người đủ tiêu chuẩn, đảm bảo về đạo đức, phẩm chất, lối sống, năng lực, sở trường công tác cũng như triển vọng phát triển. Đối với quy trình giới thiệu nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư được thực hiện hết sức chặt chẽ. trong đó, riêng các trường hợp “đặc biệt” được cân nhắc thận trọng, thực hiện quy trình chặt chẽ, kỹ lưỡng, khách quan với “2 vòng 8 bước” và thống nhất rất cao khi lựa cọn trình Đại hội.

Đại hội XIII cũng dành tới 3 ngày làm việc chính thức thảo luận, quyết định để lựa chọn ra đội ngũ tinh hoa vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ Đại hội.

Với những điểm đặc biệt nêu trên, nhân sự khoá XIII đã đảm bảo “kiên quyết không để lọt những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, không xứng đáng vào Ban Chấp hành Trung ương, nhưng cũng không bỏ sót những người thực sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và trong nhân dân”.

Họp khẩn bên lề Đại hội để thần tốc chống Covid-19

Trong lịch sử Đại hội Đảng toàn quốc chắc chưa có cuộc họp bên lề nào đặc biệt như hai cuộc họp khẩn do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì về tình hình dịch bệnh, sáng 28/1 và chiều tối 29/1 tại phòng họp ở Trung tâm Hội nghị quốc gia – nơi đang diễn ra Đại hội XIII của Đảng, khi xuất hiện trường hợp lây nhiễm Covid-19 trong cộng đồng lớn nhất từ trước đến nay, có nguy cơ lây lan nhanh trên diện rộng do biến chủng virus SARS-CoV-2 .



Các Phó Thủ tướng cùng nhiều lãnh đạo các bộ ngành, lãnh đạo các tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh… đang dự Đại hội Đảng XIII cùng tham dự các cuộc họp này.

Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long đã có cuộc họp trực tuyến đột xuất với lực lượng y tế tại điểm cầu Hải Dương, Quảng Ninh cũng như họp giao ban về công tác phòng, chống dịch với các điểm cầu ở hai địa phương trên từ đầu cầu Trung ương tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, trong hai ngày 29 và 30/1. Trước đó, nhiều thành viên của Ban Chỉ đạo chống dịch quốc gia thức suốt đêm để họp, chỉ đạo xử lý tình hình.

Chỉ thị 05 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 ngay lập tức được ban hành.

Những cuộc họp đương nhiên không nằm trong chương trình Đại hội nhưng lại rất khẩn cấp và thu hút sự quan tâm đặc biệt của phóng viên tác nghiệp tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia cũng như người dân. Cũng từ đây, thông điệp của Chính phủ được truyền đi mạnh mẽ: Thần tốc chống dịch, giữ chắc vành đai an toàn dịch tễ. Quyết liệt phòng, chống Covid-19 nhưng không quên lo Tết cho dân!

Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng các kịch bản ứng phó tình huống trước thềm Đại hội Đảng, chương trình nghị sự vẫn diễn ra thông suốt. Tuân thủ biện pháp phòng dịch, phóng viên vẫn tác nghiệp sôi động, đại biểu vẫn chủ động thông tin với báo chí mà không hoang mang hay bị “siết chặt”. Thông tin về sự kiện trọng đại của Đảng và Dân tộc cũng vì thế luôn được cập nhật tới cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Có thể nói, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công với nhiều điều đặc biệt, mang tính lịch sử!./.

Nguồn: vov.v

 

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2021

Tỉnh táo trước chiêu trò “truyền thông đen” chống phá Đại hội XIII của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước, trong đó nhiều nội dung tại Đại hội thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận: Công tác chuẩn bị nhân sự của Đại hội; công tác chuẩn bị và thảo luận các văn kiện; các hoạt động đảm bảo an ninh cho Đại hội…

Quang cảnh phiên khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam _Ảnh: TTXVN


Đại hội XIII diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường: Đại dịch COVID–19 với những biến thể mới, tác động tới nhiều quốc gia; các cuộc biểu tình, bạo loạn tại Mỹ trở thành tâm điểm chú ý của dư luận thế giới. Các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền chống phá, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về nhân sự, về đường lối của Đảng.

Gia tăng các chiến dịch tuyên truyền chống phá

Những ngày vừa qua, các thế lực thù địch, phản động ráo riết tiến hành chiến dịch tuyên truyền với mưu đồ gây sự chia rẽ trong Đảng, trong Đại hội, gây mất uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tìm cách hạ uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thông tin tuyên truyền được các thế lực phản động dàn dựng công phu, tỉ mỉ. Các website với tên miền ở nước ngoài, các tài khoản mạng xã hội được thiết lập mới để tiến hành các chiến dịch tuyên truyền chống phá trước và trong những ngày diễn ra Đại hội đã được các đối tượng phản động, chống đối lên sẵn dây cót.

Trong những ngày qua, hàng loạt chiêu trò “truyền thông đen” được các tổ chức phản động chống phá Việt Nam sử dụng để xuyên tạc, đả kích nội dung, chương trình Đại hội đang diễn ra, đặc biệt là liên quan đến công tác nhân sự. Trang “Dân làm báo” gia tăng hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội, trong đó bài viết “Đại hội 13 đảng CSVN: Một tương lai đen tối cho dân tộc” với nhiều thông tin phân tích sai trái, bịa đặt nhằm hướng lái người đọc theo ý đồ xấu.

Tổ chức phản động lưu vong Việt Tân đưa nhiều bài viết xuyên tạc công tác nhân sự Đại hội, bày ra quan điểm cho rằng trong Đảng đang có sự đấu đá giữa các phe cánh, tranh chấp nên công tác chốt nhân sự trở nên khó khăn, chậm trễ.

Một số KOLs (người có ảnh hưởng) mang màu sắc chính trị cũng tích cực đăng tải các bài viết dưới dạng “rò rỉ thông tin”, tạo bộ hiểu biết để phân tích về công tác nhân sự, từ đó vu cáo, bôi nhọ cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nguyễn Văn Đài là đối tượng từng lĩnh án tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, nay đang sinh sống tại Đức, cũng thường xuyên sử dụng Facebook cá nhân để đăng tải các video, bài viết, chia sẻ các link về tình hình công tác nhân sự trong Đại hội nhằm thu hút sự chú ý của công luận. Đài đưa ra nhiều bài viết dưới dạng “phân tích tứ trụ” với lời lẽ miệt thị, đả kích, đó cũng là cách mà đối tượng tự tạo “điểm nhấn” cho mình để gây chú ý trên mạng xã hội.

Rõ ràng, tất cả các luận điệu xuyên tạc về công tác nhân sự mà các đối tượng phản động, chống đối chính trị đưa ra đều hướng đến mục đích gây sự hoang mang trong dư luận, tạo ra các thông tin sai sự thật nhằm phá hoại tư tưởng, tác động hướng lái dư luận đi theo ý đồ xấu. Sau phiên khai mạc Đại hội, những luận điệu này tiếp tục được các đối tượng vẽ ra, từ phân tích, đánh giá đến “trò chuyện chuyên gia”, tất cả đều chụp mũ bình luận về nhân sự Đại hội XIII để xuyên tạc, chống phá. 

Thực tiễn công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng được tiến hành chặt chẽ, khoa học, trái ngược với những luận điệu rêu rao đả kích của các thế lực xấu. Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, quy trình công tác nhân sự Đại hội XIII được chuẩn bị rất chặt chẽ, công phu và có nhiều điểm mới so với nhiệm kỳ trước. Trong đó, số lượng cán bộ được quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa mới ít hơn; trước đây, công tác nhân sự thực hiện theo quy trình 3 bước thì lần này là 5 bước. Điều này cho thấy sự chặt chẽ trong khâu lựa chọn nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng, qua đó lựa chọn những nhân tố thực sự xứng đáng để Đại hội lựa chọn.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 15, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm và biểu quyết thông qua danh sách nhân sự đề cử bổ sung một số đồng chí lần đầu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, bổ sung một số đồng chí Ủy viên Trung ương khoá XII thuộc trường hợp "đặc biệt" tái cử khoá XIII và một số đồng chí lần đầu thuộc trường hợp đặc biệt tham gia Ủy viên Trung ương chính thức; thông qua nhân sự là Ủy viên Bộ Chính trị khoá XII thuộc trường hợp "đặc biệt" tái cử khoá XIII và danh sách đề cử các đồng chí vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước nhiệm kỳ khoá XIII với số phiếu tập trung rất cao.

Ban Chấp hành Trung ương cũng đã thảo luận và thống nhất cao với Tờ trình của Bộ Chính trị về dự kiến Danh sách Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký và Ban Thẩm tra tư cách đại biểu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Phòng ngừa, ngăn chặn thông tin xuyên tạc Đại hội XIII của Đảng

Về phía các cơ quan chức năng: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đang diễn ra, đây là thời điểm mà các đối tượng phản động, chống đối chính trị ra sức tuyên truyền chống phá để phục vụ cho âm mưu, ý đồ xấu. Đối với các cơ quan chức năng có nhiệm vụ trong bảo vệ Đại hội cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho các lực lượng tham gia đảm bảo an ninh Đại hội Đảng, cần xác định vai trò, vị trí và tầm quan trọng trong việc thực hiện các chức trách nhiệm vụ được giao.

Cần có sự hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn Đại hội, đặc biệt là việc chia sẻ các thông tin cần thiết, đột xuất có liên quan đến hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội của các đối tượng phản động, chống đối chính trị để kịp thời đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm.

Các cơ quan chức năng cần chủ động, linh hoạt trong việc nắm thông tin tình hình, đưa ra các dự báo có khả năng xảy ra để có phương án đấu tranh, xử lý. Kịp thời cung cấp các thông tin thường xuyên, liên tục về tình hình Đại hội để người dân có được thông tin chính thống. Các lực lượng đặc trách về nhiệm vụ quản lý an ninh về thông tin mạng cần chủ động bám sát các hoạt động tuyên truyền chống phá Đại hội để có các phương án xử lý kịp thời...

Về phía người dân: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tương lai, vận mệnh của quốc gia trong giai đoạn tiếp theo. Mỗi người dân cần chủ động nâng cao tinh thần tự bảo vệ chính mình trước các thông tin, chiến dịch tuyên truyền của các đối tượng phản động đang ra sức chống phá.

Cần có thái độ, trách nhiệm rõ ràng trước các luồng thông tin xấu lan truyền trên mạng xã hội trước, trong và sau thời điểm diễn ra Đại hội. Việc tiếp xúc với các luồng thông tin sai trái, cần phải nhận rõ được trách nhiệm của mình khi có những phát ngôn, hành động không gây ảnh hưởng, tác động đến tình hình an ninh, trật tự, không chia sẻ, bình luận cổ súy. Bên cạnh đó, cần có trách nhiệm trong việc lên tiếng, đẩy lùi các thông tin sai trái, xuyên tạc để bảo vệ Đảng, bảo vệ Đại hội.

Nguồn: Huân Nguyễn - Báo điện tử CAND

 

Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

(TG) - Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”.



Chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn dân ta đối với Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH 

Mục đích và thủ đoạn của các thế lực thù địch là gì khi chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”? 

Về chính trị, chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp chưa phát triển, số lượng, chất lượng công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến”. Vì thế, “giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam” (!). “Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc Đảng ta đã sai lầm về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã hội, “tạo điều kiện cho Đảng Cộng sản độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt tự do, dân chủ”. Chúng kêu gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó không ai chịu chấp nhận”; đòi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.

Về tư tưởng, chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây, nên không còn phù hợp với Việt Nam”; rằng “Học thuyết Mác là sản phẩm của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học” (!); “chủ nghĩa Mác đã đóng góp khá nhiều cho lịch sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó không còn phù hợp với thời đại ngày nay”; v.v.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”; “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là để “an dân” chứ thực chất không theo Hồ Chí Minh (!?).

Về phương diện tổ chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền, còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong xã hội, không có nhân đạo.

Chúng còn cho rằng, trong Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng còn có các nhóm lợi ích, v.v.

Về đạo đức, chúng bịa đặt, bôi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, đánh vào sinh hoạt, đạo đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều chuyện giật gân trong sinh hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên ngày càng suy thoái, biến chất; tham nhũng, tham ô, lãng phí là căn bệnh trầm kha không thể chữa trị được. Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà nước tham nhũng”...

Thực chất, những “lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LUÔN ĐỦ KHẢ NĂNG ĐỂ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC

Giả định rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước thì lực lượng nào sẽ có đủ khả năng để thay thế vai trò đó? Các thế lực thù địch thừa hiểu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là như thế nào, và ở Việt Nam hiện nay không một tổ chức nào có thể thay thế và làm tốt vai trò lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc nói là cứ nói, “đòi” là cứ đòi, dù biết là “nói lấy được”, mà đòi thì không được! Vì thế, trong các luận điệu chúng tung ra, rất ít thấy xuất hiện một lực lượng cụ thể, một gương mặt “sáng giá” khả dĩ có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đâu đó họ có nói đến “lực lượng chính trị mới”. Nhưng cái gọi là “lực lượng chính trị mới” mà các thế lực thù địch tung hô có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước và xã hội, thực chất chỉ là lực lượng được các nước tư bản và các thế lực phản động quốc tế nuôi dưỡng, ủng hộ, cung cấp tài chính, hậu thuẫn về chính trị, quân sự, ngoại giao. Đó là một tổ chức ô hợp gồm nhiều đại diện của nhiều lực lượng có thù hận với cách mạng Việt Nam, có tội ác với nhân dân, những kẻ muốn lợi dụng dân tộc ta làm lá bài chính trị để phục vụ cho lợi ích ích kỷ của chúng.

Với lực lượng chính trị như vậy thì chắc chắn con đường mà họ lựa chọn cho đất nước ta sẽ là con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Khi nắm được quyền lãnh đạo, họ sẽ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), xóa bỏ thành tựu mà nhân dân ta đã hy sinh bao xương máu mới giành được, sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản (CNTB).

Với một mục tiêu chính trị và một nhân thân như vậy, chúng biết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ trao cho chúng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, các chiêu bài được tung ra cũng chỉ nhằm gây chú ý, tạo dư luận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân ta, trong xã hội ta, đồng thời để tranh thủ sự ủng hộ của các nước tư bản và các thế lực phản động quốc tế hòng gây sức ép, đặt điều kiện với chúng ta… để từng bước vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về thực chất, cái gọi là “lực lượng chính trị mới” không phải là lực lượng vì dân vì nước, mà chủ yếu là vì quyền lợi giai cấp, vì mục tiêu chính trị phản động.  Do đó, một khi lực lượng này lãnh đạo đất nước thì hệ quả tất yếu sẽ là: lái đất nước đi theo con đường TBCN. Theo đó, thì cái lợi trước hết không phải cho nhân dân lao động, cho dân tộc ta mà cho giai cấp bóc lột, cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Còn nhân dân ta phải đổ bao xương máu mới giành được độc lập, mới thoát khỏi kiếp nô lệ, là người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, thì sẽ phải quay lại địa vị cũ, đất nước lại rơi vào vòng lệ thuộc của các nước tư bản, đế quốc.

Thực tế lịch sử đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giành lại độc lập, thống nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH. Đất nước chuyển sang giai đoạn mới, vừa có hòa bình vừa có chiến tranh; vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, vừa chống lại sự bao vây, cấm vận và cô lập tứ phía. Khó khăn chồng chất khó khăn. Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những năm lãnh đạo miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh trước đây tuy rất quý báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức xây dựng và quản lý phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mô và tầm vóc mới. Mọi việc dường như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập và vừa bước ra khỏi các cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm. 

Các chiến sỹ Vùng 2 Hải quân với công tác trang trí, tuyên truyền, cổ động Đại hội XIII bằng panô, khẩu hiệu, bảng ảnh trong đơn vị. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)

Chưa hết, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã giáng một đòn mạnh vào hệ thống XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng chưa từng có và đang đứng trước nguy cơ của sự sụp đổ. Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được phát huy và thể hiện trong điều kiện thực tiễn mới. “Đổi mới hay là chết” đó không chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh của những con tim và khối óc có đủ sự nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước thoát khỏi sự hiểm nguy. 

Trớ trêu thay, trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã không có một lực lượng nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác trách nhiệm trước non sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy nhưng tiếng kêu la, oán thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm ngã lòng người từ phía các thế lực thù địch và cơ hội... Thực tiễn lịch sử lại cho thấy một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xứng đáng và tin cậy của dân tộc và nhân dân Việt Nam; lịch sử và nhân dân Việt Nam lại một lần nữa tin tưởng trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, dẫn dắt giống nòi tiến bước cùng thời đại. Đó là sự thật hiển nhiên không phải bàn cãi.

LUẬN CỨ PHÊ PHÁN 

Cơ sở lý luận

Thứ nhất, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan.

Vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn CNTB. Nhưng muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo. Đội tiên phong chính là Đảng Cộng sản - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Ph.Ăngghen cho rằng, Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng XHCN giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu giai cấp.

Kế thừa tư tưởng trên của Mác - Ăngghen, Lênin khẳng định: “Về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”(1). Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới. Lênin cũng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản…. cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh đạo cả xã hội”(2). Và trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”(3).

Giải đáp vấn đề “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(4). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(5).

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp pháp.

Trên thế giới, việc quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính phổ biến. Chẳng hạn: Hiến pháp của Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc có 1 điều; Hiến pháp của Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Ba Lan có 2 điều; Hiến pháp Udơbêkixtan có 3 điều,… quy định về đảng chính trị(6).

Các bản Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có 1 điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(7), là phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay, không phải là cá biệt.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”(8). Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ được quy định tại Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác ở Việt Nam.

Thứ ba, Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trên thực tế, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong thực tế tiến hành cách mạng và được nhân dân thừa nhận.

Thực tiễn Việt Nam đã từng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Hai đảng này không đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân, mà bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận.

 Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 - 1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 - 1988), nhưng các đảng ấy cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân giao phó, ủy thác. Sau đó hai đảng này tuyên bố tự giải thể và chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng  không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào.

Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền chính là thông qua việc nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng thuận.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên CNXH. 

Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm nghiêm trọng. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và quy kết Đảng không đủ năng lực lãnh đạo trong điều kiện mới của đất nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.

Thứ ba, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

Quan hệ Đảng - dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng lớp nhân dân mong muốn Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chia sẻ quyền lực với các lực lượng khác khác trong vai trò cầm quyền của mình. Bởi đó là nguyên tắc đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam, không thể thay đổi

Thứ tư, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội.

Tuyệt đại đa số nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các khuyết điểm, yếu kém để hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tóm lại, quan điểm cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa học, phi thực tế. Quan điểm này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ khoa học, bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện và phi lôgic. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân./.

PGS. TS. PHAN TRỌNG HÀO

Hội đồng Lý luận Trung ương 
________________________
(1) (2) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M, 1980, t.33, tr.406, 401.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr.122.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009, t.2, tr.267-268.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.8.
(6) Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2012, tr.383-390.
(7) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2014, tr.9.
(8) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.88, 88.

 

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2021

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta hiện nay

TCCS - Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản. Thực chất của nguyên tắc này chính là nhằm nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định của Đảng luôn là sản phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên khi ý chí của đa số được khẳng định và bắt buộc phải phục tùng.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, vừa bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về ý chí và hành động, vừa phát huy được dân chủ trong Đảng, tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành do Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(1).

Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng biểu quyết thông qua chương trình Hội nghị Trung ương 14 khóa XII_Ảnh: TTXVN


Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được quy định tại Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên... 3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới... 4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. 6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”(2).

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là do, trước hết, xuất phát từ bản chất của Đảng và từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin xác định, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân, là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Đảng chỉ kết nạp vào trong đội ngũ của mình những người ưu tú nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Làm cách mạng để tự giải phóng và để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành xã hội mới tốt đẹp... là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”(3). Cách mạng muốn thắng lợi, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(4). Để xây dựng Đảng vững mạnh, trước hết phải xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức. Tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương phải thật chặt chẽ, thống nhất, có ý thức kỷ luật cao. Đoàn kết là sức mạnh của Đảng, còn kỷ luật của Đảng là một điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó không thể tách rời nhau trong nội bộ Đảng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên. Bởi nhiệm vụ lịch sử của Đảng rất nặng nề, phức tạp, lâu dài, luôn phải đấu tranh với các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá Đảng và chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng phải được xây dựng một cách tập trung với sự thống nhất về tổ chức và hoạt động, đồng thời giữ vững kỷ luật nghiêm minh thì mới đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang.

Hai là, xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, chế độ tập trung dân chủ trong Đảng chính là nguồn gốc tạo ra sức mạnh của Đảng về mặt tổ chức, là điều kiện bảo đảm cho Đảng giữ vững sự thống nhất về ý chí và hành động.

Luận giải về vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều khẳng định, nguyên tắc này có tác dụng quan trọng đối với việc nâng cao tính tích cực và sáng kiến của đảng viên trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp của Đảng, để các quyết định của Đảng trở thành sản phẩm trí tuệ tập thể của tất cả các đảng viên và của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, làm tăng thêm tính kỷ luật, tính tự giác vô sản của Đảng. Dân chủ trong Đảng hoàn toàn đối lập với dân chủ hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa cơ hội. Nếu các phần tử cơ hội chủ nghĩa núp dưới chiêu bài “dân chủ” để tấn công vào chế độ tập trung và âm mưu đòi tự do bè phái trong Đảng, thì ngược lại, những người cộng sản đấu tranh để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của đảng viên, giáo dục cho đảng viên có ý thức làm chủ trong Đảng. Tập trung trong Đảng là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể, bảo đảm cho các chủ trương của Đảng được đúng đắn, trên cơ sở tập trung được kinh nghiệm và ý kiến của mọi đảng viên, hạn chế được những sai lầm chủ quan, phiến diện, tránh được những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền. V.I. Lê-nin viết: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(5); “Không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”(6). V.I.Lê-nin khẳng định, đây là nguyên tắc tổ chức duy nhất đúng của đảng vô sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải bản chất của tập trung dân chủ: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(7). Tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý nhà nước. Dân chủ phải được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên cơ sở dân chủ. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo môi trường cho phát sinh cửa quyền, tham nhũng. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cá nhân chủ nghĩa.

Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Một người dù tài giỏi bao nhiêu cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể hiểu được cặn kẽ mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, được đúng, cần phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều người, giúp chỉ ra được các mặt của vấn đề, qua đó, sẽ hiểu vấn đề một cách toàn diện và vì vậy, mới có thể lãnh đạo thành công trong việc giải quyết vấn đề đó. Khi tập thể đã bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì giao cho một người phụ trách chính. Làm như vậy, kế hoạch mới được thực hiện đầy đủ, không bị chồng chéo, tránh dựa dẫm, công việc sẽ đạt kết quả cao, có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình những người làm kém, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”(8). Phải tránh dân chủ theo kiểu tùy tiện, phân tán, vô tổ chức và hình thức. Như thế là rất nguy hại, làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng.

Các đại biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025_Nguồn: baoquangninh.com.vn


Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản. Một số nước nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cản trở sự phát triển của các nước đó.

Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, từ đó tập hợp, đoàn kết, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm hạt nhân quy tụ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Bước tiến mới trong cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay

Trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt là 35 năm đổi mới, Đảng ta luôn kiên trì giữ vững và có nhiều thành tựu trong việc cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trên tất cả lĩnh vực, hoạt động. Cụ thể là:

1- Trong xây dựng Cương lĩnh, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng: Từ khi thành lập Đảng, đặc biệt là trong những năm đổi mới, những quyết định lớn, đường lối, chủ trương của Đảng, từ dự thảo Cương lĩnh đến dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng đều được tổ chức thảo luận dân chủ rộng rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến góp ý của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, được Trung ương thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt, phân tích thấu đáo, nhất là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Những vấn đề mới, khó, phức tạp được tổ chức hội thảo, tọa đàm để thảo luận, trao đổi kỹ, lấy ý kiến chuyên gia trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Từ sau Đại hội VIII của Đảng, đã thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương  - có chức năng tư vấn lý luận chính trị, mở rộng dân chủ trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn khó, hóc búa, nhờ vận dụng đúng đắn và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, đã được các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng nghiên cứu và quyết định, như: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; đẩy mạnh hội nhập quốc tế,... Những vấn đề mới, khó thì thực hiện thí điểm để tổng kết, rút kinh nghiệm, như thực hiện đầu tư đối tác công - tư; xây dựng chính quyền đô thị; giao quyền tự chủ cho thành phố trực thuộc Trung ương;... Thực tiễn cho thấy, Đảng ta càng phát huy dân chủ rộng rãi thì càng bảo đảm tính tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong quyết định của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, như Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp. Dân chủ càng được mở rộng thì chế độ tập trung trong Đảng càng được đề cao; dân chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, góp phần tạo nên sự thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo, chỉ đạo.

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tặng bằng khen của Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương cho các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh_Ảnh: TTXVN


Đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; điều kiện xã hội đã thay đổi trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, con người so với thời kỳ chiến tranh, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thời kỳ bao cấp, những năm đầu đổi mới. Vì vậy, việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay có những yêu cầu và bước phát triển mới so với các thời kỳ trước. Hiện nay, dân chủ là nhu cầu thiết yếu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời là nhu cầu tự thân để phát triển, hoàn thiện của một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhằm bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện mới; đòi hỏi phát huy dân chủ mạnh mẽ trong Đảng và sự sáng tạo, trí tuệ của mọi đảng viên để các quyết định của tập thể đúng đắn, có sự thống nhất cao. Việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là một đòi hỏi tất yếu trong tổ chức và hoạt động của Đảng hiện nay, mà còn là một nguyên tắc cốt yếu trong quản lý nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

2- Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng: Sinh hoạt của các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở, các cấp ủy viên mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình; tăng cường các hình thức giao ban, hội nghị, tọa đàm, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt với đảng viên và nhân dân... Từ sau Đại hội IX của Đảng, chế độ thực hành dân chủ trong Đảng ngày càng được mở rộng, đã thực hiện việc phê bình, chất vấn tại các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoặc trong thời gian giữa hai kỳ họp (Quy định số 23-QĐ/TW, ngày 15-1-2002, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về thực hiện việc phê bình, chất vấn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 8-6-2012, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về thực hiện việc chất vấn trong Đảng tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”;...). Việc chất vấn và trả lời chất vấn được mở rộng tới hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và áp dụng đối với toàn thể đảng viên, cấp ủy viên, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, nhằm phát huy dân chủ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao trách nhiệm và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên (Quy chế chất vấn trong Đảng, ban hành kèm theo Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 12-5-2008, của Bộ Chính trị khóa X). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp”(9). Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo công việc đã làm trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương; ban thường vụ báo cáo cấp ủy cấp mình kết quả giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị cấp ủy. Định hình chế độ giao ban định kỳ hằng tháng của lãnh đạo chủ chốt Đảng và Nhà nước, của thường trực cấp ủy, là cơ sở cho thảo luận thống nhất và phát huy dân chủ trong Đảng, từ Bộ Chính trị đến thường vụ cấp ủy, sự lãnh đạo, điều hành nhất quán của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương,...

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, đã ban hành Quy chế làm việc mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương (Quyết định số 168 QĐ-TW, ngày 28-12-2018, của Ban Bí thư khóa XII, “Về việc ban hành quy chế làm mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương”), xác định rõ chế độ công tác, thẩm quyền, trách nhiệm của thường trực, thường vụ cấp ủy, nhất là của bí thư cấp ủy đối với cấp ủy, khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực của người đứng đầu cấp ủy hoặc núp bóng thường vụ cấp ủy quyết định vượt thẩm quyền.

3- Trong công tác cán bộ, nhất là lựa chọn đảng viên để giới thiệu ứng cử, bầu vào các chức danh lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Quy chế bầu cử trong Đảng, thực hiện từ chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương (Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng”); Quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử (Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, của Bộ Chính trị khóa XII), xác định quy trình 5 bước lựa chọn nhân sự với những người tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy, hướng theo cơ cấu, tiêu chuẩn của thường vụ cấp ủy, vừa phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể cấp ủy, vừa phát huy dân chủ rộng rãi trong cán bộ chủ chốt, đảng viên, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác quản lý cán bộ. Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020  - 2025 đã được tổ chức thành công, đúng kế hoạch, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, có nguyên nhân quan trọng là đã thực hiện quy trình 5 bước lựa chọn nhân sự, phát huy đầy đủ, kịp thời sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên với đề cao trách nhiệm cấp ủy từng cấp.

Các đại biểu bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thuận Châu (tỉnh Sơn La) khoá XXI, nhiệm kỳ 2020 - 2025_Ảnh: TTXVN
4- Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới: Để thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta đã đẩy mạnh việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, giảm cấp trung gian, thực chất là giảm bớt tình trạng phân tán quyền lực vào các tầng nấc trung gian, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cấp. Tính đến ngày 31-12-2019, bộ máy hệ thống chính trị đã giảm được 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 97 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh; 6 tổng cục và tương đương; 19 cục, vụ, 90 đơn vị sự nghiệp công lập ở Trung ương; 3.768 phòng, đội và tương đương; 4.963 đơn vị sự nghiệp công lập, 3.646 đầu mối trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương...; giảm 10.386 cấp trưởng, cấp phó ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện; 3.306 cấp trưởng, 4.080 cấp phó ở các đơn vị sự nghiệp công lập địa phương(10). Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát huy dân chủ đúng hướng. Phân cấp, phân quyền ngày càng rõ hơn, tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy vai trò chủ động. Tình trạng cục bộ, mất đoàn kết trong cán bộ, đảng viên được chấn chỉnh, xử lý kịp thời.

Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Vẫn còn biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Còn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn có biểu hiện gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Còn thiếu những quy chế xác định trách nhiệm cụ thể, dẫn đến vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích được những cán bộ, đảng viên nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: Ở một số tổ chức đảng, vẫn có tình trạng một số cấp ủy viên chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thật sự tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc. Còn tình trạng dân chủ hình thức, thống nhất một chiều, thiếu sự tranh luận, thảo luận thấu đáo hoặc hiểu không đúng nguyên tắc này, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ ở một số nơi. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi còn hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi có sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, vô trách nhiệm, trì trệ, lợi dụng cơ chế tập thể để thực hiện ý đồ cá nhân, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến tháng 8-2020, trong tổng số gần 40 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng chiếm tới 60,5%, dẫn đến cấp ủy buông lỏng vai trò lãnh đạo; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu giảm sút; nhiều tổ chức đảng rơi vào dân chủ hình thức, đoàn kết xuôi chiều; người đứng đầu lạm quyền, vượt thẩm quyền, gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành, vi phạm nghiêm trọng các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, nhiều nơi rất nghiêm trọng”(11). Vi phạm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ “liên quan đến cán bộ lãnh đạo ở nhiều cương vị, từ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang đến đảng viên được giao thực hiện chức trách, nhiệm vụ, công vụ; cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu nhưng vi phạm khi còn đang công tác; vi phạm xảy ra ở nhiều loại hình tổ chức đảng,... dẫn đến vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhiều lĩnh vực”(12).

Nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong thời gian tới

Trong thời gian tới, để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Theo đó, dân chủ phải đi đôi với tập trung; phát huy dân chủ phải đồng thời gắn liền với chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương, phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác, như tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất trong Đảng...

Hai là, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện. Cấp ủy, tổ chức đảng rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất và liên thông với quy chế làm việc của cấp ủy cấp trên và quy định của Trung ương có liên quan; xây dựng quy chế tổ chức và quản lý sinh hoạt tư tưởng; quy trình chuẩn bị, thảo luận, thông qua nghị quyết của các cấp ủy; quy định về việc xem xét, kết luận các đơn, thư khiếu nại, tố cáo...

Đồng chí Đào Hồng Lan, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh dự sinh hoạt tại Chi bộ thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh_Nguồn: bacninhtv.vn


Ba là, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến. Đồng thời, với mở rộng dân chủ, phải củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải nghiêm túc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống... Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm.

Năm là, đề cao, phát huy vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với giữ vững và chủ động, tích cực phòng, chống tình trạng xa rời nguyên tắc này. Làm rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là thực hiện các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung./.

-------------------------

(1) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 518
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII)Sđd, tr. 523 - 524
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr . 601
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(5), (6) V.I. Lê-nin: Toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 185, 186
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 263 – 264
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 620
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 30
(10) Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), Hà Nội, 4-2020, tr. 255
(11), (12) Phạm Thái Hà: “Chấn chỉnh vi phạm về quy chế làm việc qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm”, Trang thông tin điện tử Ủy ban Kiểm tra Trung ương, http://ubkttw.vn/nghien-cuu-trao-doi/-/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/chan-chinh-vi-pham-ve-quy-che-lam-viec-qua-kiem-tra-khi-co-dau-hieu-vi-pham, ngày 12-8-2020

 


Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...