Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

XÔ VIẾT - NGHỆ TĨNH, 90 NĂM ĐỒNG HÀNH CÙNG LỊCH SỬ DÂN TỘC

 Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô-viết Nghệ - Tĩnh là sự kiện trọng đại của lịch sử dân tộc trong thế kỷ XX, là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và quần chúng nhân dân chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Tượng đài Xô viết - Nghệ Tĩnh

"Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh"

Nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Điều đó được minh chứng rõ nét trong phong trào cách mạng 1930-1931 ở Nghệ -Tĩnh với sự vùng lên của quần chúng lao khổ chống lại cường quyền.

Phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ - Tĩnh được mở đầu bằng cuộc đấu tranh của công - nông Vinh - Bến Thủy vào ngày 1-5-1930. Nhân dân các huyện Nghi Xuân, Hương Khê, Thanh Chương, Đô Lương hưởng ứng, tổ chức treo cờ, mít tinh, diễu hành, đấu tranh kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930.

Từ đấu tranh chính trị, quần chúng đã biểu tình với những vũ khí thô sơ. Mở đầu thời kỳ đấu tranh vũ trang là cuộc biểu tình của khoảng 3.000 nông dân Nam Đàn ngày 30-8-1930 buộc tri huyện phải ký nhận vào bản yêu sách của nhân dân. Ngày 1-9-1930, tại Thanh Chương đã nổ ra cuộc biểu tình với quy mô rộng của trên 2 vạn nông dân trong 5 tổng. Trong hai ngày 7 và 8-9-1930, hàng ngàn nông dân các huyện Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên phối hợp biểu tình, kéo về tỉnh lỵ Hà Tĩnh… vùng lên đấu tranh mạnh mẽ.

Sáng ngày 12-9-1930, khoảng  8.000 nông dân thuộc 3 tổng: Phù Long, Thông Lạng (huyện Hưng Nguyên) và Nam Kim (huyện Nam Đàn), đã giương cao cờ đỏ búa liềm đấu tranh. Hoảng sợ, thực dân Pháp cho máy bay trút bom xuống đoàn biểu tình khiến 217 người chết, 125 người bị thương, hàng chục người bị bắt giam.

Từ tháng 9 trở đi, phong trào đấu tranh của quần chúng chuyển biến vượt ra ngoài dự kiến của các cấp bộ Đảng. Những cuộc biểu tình có vũ khí thô sơ có sự hỗ trợ của Đội Tự vệ đỏ, nông dân nhiều huyện ở Nghệ Tĩnh dồn dập tấn công huyện đường. Trước bão táp cách mạng của quần chúng, chính quyền cai trị bị rối loạn; quan chức người Pháp ngày đêm sống trong tâm trạng lo âu, tìm nơi trú ẩn; quan lại phong kiến Nam Triều, số xin nghỉ việc, số xin đổi đi nơi khác, số được cử ra thay thế cũng dè dặt trong khi làm nhiệm vụ.

Nhà nước Xô-viết: Khát vọng về quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc

Ngay từ khi ra đời, chính quyền Xô-viết  đã thực hiện các quyền lợi cho người dân lao động. Về chính trị: Xô-viết không thừa nhận bộ máy chính quyền của thực dân, phong kiến và những luật lệ do chúng đặt ra để kìm kẹp, bóc lột nhân dân, thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân như tự do hội họp, tự do đi học, nam nữ bình quyền.., trấn áp bọn phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an và bảo vệ cách mạng cho các Đội tự vệ đỏ... Về kinh tế, không nạp sưu thuế cho Pháp và buộc các tổng lý phải trả lại cho nhân dân số tiền thuế đã thu, buộc các chủ ruộng, các nhà giàu phải giảm tô, hoãn nợ và bỏ các khoản địa tô phụ cho nông dân, quy định lại mức tiền công cho những người làm thuê chia lại ruộng công... một số nơi còn sử dụng ruộng đất công tổ chức cho nhân dân sản xuất tập thể theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp. Về văn hóa - xã hội: Bài trừ các hủ tục lạc hậu, cấm hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc…

Những chính sách và biện pháp được Xô viết thực hiện đã tạo ra bầu không khí mới trong nông thôn. Lòng tin của quần chúng đối với Đảng và cách mạng được biểu hiện rõ rệt. Những tiếng gọi "cộng sản", “xã hội” bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, vừa là lý tưởng, vừa là khẩu hiệu hành động của quần chúng. Họ sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản để chống lại chính sách khủng bố của thực dân Pháp, bảo vệ Xô-viết.

Chính quyền Xô-viết là đỉnh cao của cao trào cách mạng, là cuộc đấu tranh giai cấp “long trời, lở đất” của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù ra đời và tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, nhưng Xô-viết đã tỏ rõ tính ưu việt và bản chất tiến bộ của một chính quyền cách mạng của dân, do dân và vì dân.

Ý Đảng lòng dân: Cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng

Vừa mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930-1931, tiêu biểu là Xô-viết Nghệ - Tĩnh, làm rung chuyển chế độ thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Cùng với sự lãnh đạo của BCH Trung ương Đảng là sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Trung kỳ và các cấp ủy đảng ở Nghệ Tĩnh. Giai cấp công nhân đã biểu hiện rõ vai trò lãnh đạo và tính tiên phong của mình. Sự phối hợp giữa các cuộc bãi công của công nhân với các cuộc biểu tình của nông dân thể hiện sự gắn bó mật thiết của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và nhân dân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thường xuyên theo sát và chỉ đạo kịp thời diễn biến phong trào đấu tranh của nhân dân ở Nghệ Tĩnh. Tháng 9-1930, nhận được báo cáo về việc thành lập chính quyền Xô viết ở huyện Thanh Chương và Nam Đàn, Trung ương Đảng gửi ngay chỉ thị cho Chấp ủy Trung kỳ. Trung ương Đảng phê bình Chấp ủy Trung kỳ, cho rằng làm như vậy là quá sớm, không đúng thời cơ, vì trong cả nước chưa có tình thế cách mạng trực tiếp. Đồng thời, Trung ương Đảng cũng góp ý kiến cho Chấp ủy là phải làm thế nào để duy trì được ảnh hưởng của Đảng và chính quyền Xô viết trong quần chúng nhân dân; uốn nắn một số sai sót trong việc tổ chức biểu tình và chia ruộng đất công...

Chỉ thị của Trung ương Đảng đã kịp thời giúp Chấp ủy Trung kỳ và Đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh sửa chữa những thiếu sót trong việc chỉ đạo phong trào. Đến tháng 10-1930, BCH Trung ương Đảng ra thông cáo cho toàn Đảng biết rõ tình hình. Bản thông cáo nhắc nhở các địa phương phải lấy việc xảy ra ở Nghệ An làm kinh nghiệm để vận động quần chúng, nhất là quần chúng nhân dân cho đúng với nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trung ương chỉ thị cho toàn Đảng phải ra sức vận động quần chúng đấu tranh chống khủng bố trắng của đế quốc Pháp để ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ.

Từ tháng 9-1930, các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ra tuyên bố về việc bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng của bọn đế quốc. Trung ương kêu gọi "Tất cả chúng ta, nhân dân trong nước chúng ta cần thiết phải phát động một phong trào rộng lớn, một làn sóng biểu tình to lớn trong suốt chiều dài đất nước để giữ vững những thắng lợi giành được ở Bến Thủy trong tỉnh Nghệ An đỏ”.

Sự phát triển của cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh càng minh chứng rõ nét vai trò lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ mật thiết giữa ý Đảng và lòng dân. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và kịp thời càng chứng tỏ năng lực lãnh đạo và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với phong trào cách mạng, khẳng định vị thế, uy tín của Đảng trong lòng nhân dân.

Truyền thống bất khuất, “đứng đầu dậy trước" của nhân dân Nghệ Tĩnh

Cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh tạc vào lịch sử như một mốc son chói lọi cho truyền thống bất khuất, kiên cường và phẩm chất “đứng đầu dậy trước” của con người xứ Nghệ.

Khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược Việt Nam, nhân dân Nghệ Tĩnh đã hăng hái đứng lên chống kẻ thù. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đặng Như Mai với ngọn cờ “Bình tây sát tả” đánh cả Triều lẫn Tây năm 1874. Khi chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi ban ra thì cả dãy Hồng Lam bừng bừng khí thế "Bình Tây, phục Quốc" dưới sự lãnh đạo của văn thân, sỹ phu yêu nước. Phan Đình Phùng với cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã trở thành ngọn cờ Cần Vương tiêu biểu của cả nước.

Đến năm 1905, phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu khởi xướng đã thu hút được đông đảo thanh niên Nghệ Tĩnh tham gia. Khi phong trào Đông Du đang phát triển sôi nổi ở nước ngoài, năm 1908 phong trào chống thuế diễn ra mạnh mẽ ở Trung Kỳ, trong đó có 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Phong trào yêu nước của nhân dân Nghệ Tĩnh diễn ra liên tục và mạnh mẽ nhưng thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn nên bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Thất bại của các vị tiền bối càng thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đó cũng là những khảo cứu quan trọng trong hành trang của Người để tìm ra con đường giải phóng dân tộc.

Truyền thống yêu nước và cách mạng của người xứ Nghệ đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hoạt động truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những đồng chí của Người. Thông qua những hoạt động tích cực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tổ chức Thanh Niên, Chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga đã sớm được truyền bá vào Nghệ Tĩnh. Từ năm 1925 trở đi, trên mảnh đất Nghệ Tĩnh đã diễn ra nhiều cuộc vận động yêu nước theo xu hướng mới với sự ra đời của các tổ chức yêu nước như: Tân Việt và Thanh niên…

Tinh thần Xô-viết: Giá trị trường tồn

Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ - Tĩnh là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng và nhân dân ta trong quá trình tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, thành quả mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến sau đó đã không xóa nổi là ở chỗ: nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo của giai cấp vô sản, đồng thời đem lại cho đông đảo quần chúng công - nông lòng tin ở sức mạnh của mình.

Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng. “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó, công- nông đã vung ra nghị lực phi thường của mình, thì không thể có cao trào trong những năm 1936-1939...”.

Đánh giá về phong trào cách mạng 1930-1931 và Xô-viết Nghệ - Tĩnh, Hồ Chí Minh đã từng viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu nhưng Xô-viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam; phong trào tuy thất bại nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”. “Hơn cả Công xã Pa-ri đối với Cách mạng Pháp, hơn cả Công xã Quảng Châu đối với Cách mạng Trung Quốc, Xô-viết Nghệ - Tĩnh có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam. Nó đã ảnh hưởng một cách trực tiếp và toàn diện đến những giai đoạn sau của cách mạng Việt Nam…".

Xô-viết Nghệ - Tĩnh còn làm chấn động dư luận quốc tế. Trong thư của  Quốc tế Cộng sản gửi các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ ngày 27-2-1931 có nhận xét: “Phong trào cách mạng sôi nổi trong các xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sản trong thuộc địa, nhất là các nước phương Đông”. Trong phiên họp ngày 11-4-1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11, BCH Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là Phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

Phát huy tinh thần Xô-viết Nghệ - Tĩnh trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, việc hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế phù hợp với xu thế phát triển thời đại và nguyện vọng, lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân là cần thiết để hình thành động lực, sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp đổi mới đất nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy những giá trị cao đẹp, xác định đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Xô-viết Nghệ - Tĩnh mãi mãi là niềm tự hào và kiêu hãnh, tiếp thêm sức mạnh để nhân dân Nghệ An vững bước trên con đường cách mạng, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập, xây dựng Nghệ An trở thành “một tỉnh khá” như lời của Bác Hồ mong muốn.

Ngẫm

PGS, TS. Trần Vũ Tài Viện trưởng Viện Sư phạm Xã hội, Đại học Vinh

 

Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai với sự nghiệp giải phóng phụ nữ

(TG) - Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là một nữ chiến sỹ cộng sản tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ, Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Một trong những đóng góp của đồng chí là thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ mau tới thành công, thông qua việc vận động phụ nữ tham gia và trực tiếp lãnh đạo, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng.

Thẻ đại biểu của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tham dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 7 năm 1935. Ảnh tư liệu

Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai sinh ngày 30/9/1910, trong một gia đình viên chức nghèo tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, Nghệ An, một vùng quê giàu truyền thống cách mạng.

Sớm tiếp thu truyền thống quê hương, gia đình, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng, mới 16 tuổi, Nguyễn Thị Minh Khai đã tích cực tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1927, ở tuổi 17, Nguyễn Thị Minh Khai đã được chính thức kết nạp vào tổ chức Việt Nam cách mạng Đảng (tên gọi mới của Hội Phục Việt)(1); đồng thời, chịu ảnh hưởng nhiều về đường lối và phương thức hoạt động của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập.

Từ thực tiễn hoạt động đấu tranh cách mạng, Nguyễn Thị Minh Khai đã nhanh chóng trở thành một cán bộ cốt cán trong phong trào cách mạng: Bí thư Phụ nữ đoàn và tham gia Ban thường vụ Tỉnh ủy Tân Việt tỉnh Nghệ An (1929), thành viên tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929). Đồng chí đã luôn năng động, tích cực, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của phong trào công nhân ở Vinh và công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy. Chính vì vậy, đến năm 1928 “phụ nữ đoàn” phát triển thêm được 50 người; đặc biệt, số chị em phụ nữ tham gia các tổ chức quần chúng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ ngày càng đông, góp phần thúc đẩy quá trình hợp nhất các tổ chức Đảng, thành một chính Đảng duy nhất để tập hợp lực lượng.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, trở thành đảng viên của Đảng, Nguyễn Thị Minh Khai tiếp tục đảm trách công tác tuyên truyền, vận động, huấn luyện phụ nữ, đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy (Nghệ An), tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng. Đồng chí đã tích cực tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia đấu tranh cách mạng và tổ chức nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho Đảng. Đây cũng chính là lực lượng nòng cốt trong Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930 - 1931.

Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai - một trong những cán bộ kiên cường lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân tham gia cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 11/1940. Ảnh: T.L
Thực hiện sự phân công của tổ chức Đảng, tháng 3/1930, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai rời quê hương sang Hồng Kông (Trung Quốc) hoạt động cách mạng. Trong thời gian ở Trung Quốc (3/1930 đến cuối 1934), đồng chí luôn thể hiện rõ ý chí kiên trung, kiên định với sự nghiệp cách mạng vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, hướng tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, trong đó có người phụ nữ, đem lại quyền bình đẳng cho phụ nữ. Bên cạnh việc cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao giúp việc cho cơ quan Đảng trong vai trò của một người chắp mối liên lạc, đồng chí không ngừng học hỏi lý luận, văn hóa, ngoại ngữ và thực tiễn dưới sự chỉ dạy của người thầy Nguyễn Ái Quốc. Mọi gian nguy, thử thách, tù đày, tra tấn của nhà tù Tưởng Giới Thạch, không làm đồng chí chùn bước mà ngày càng hun đúc nhiệt huyết cách mạng, lòng kiên trung. Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã vinh dự là một trong 6 đại biểu đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tổ chức ở Mátxcơva (Liên Xô)(2).

 Trong thời gian chờ Đại hội VII khai mạc (cuối 1934 - 7/1935), theo Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh Khai vào học Trường Đại học Phương Đông để nâng cao trình độ lý luận và kiến thức phục vụ lý tưởng cao cả và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Tiết mục sân khấu hóa hình tượng Liệt sĩ- nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn, Chợ Lớn Nguyễn Thị Minh Khai. Ảnh: Phương Vy-TTXVN

Tại diễn đàn Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong phiên họp thứ 40, ngày 16/8/1935, Nguyễn Thị Minh Khai với bí danh Phan Lan đã có tham luận  với nội dung lên án, tố cáo chế độ thực dân, phong kiến đã thi hành chính sách tàn bạo, dã man đối với nhân dân Đông Dương, nhất là đối với phụ nữ; nêu bật vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ. Tham luận đã khẳng định: “Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, cho sự thành lập mặt trận thống nhất chống bọn gây chiến”(3). Tiếp đó, tại Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên (tháng 9, 10/1935), Nguyễn Thị Minh Khai đã tham dự, phát biểu nêu rõ tình cảnh, những hoạt động và nhiệm vụ trước mắt của thanh niên trong đó có nữ thanh niên Đông Dương. Các tham luận của Nguyễn Thị Minh Khai đã nhận được sự hoan nghênh của các đại biểu tham dự đại hội, đồng thời góp phần giúp Quốc tế Cộng sản hiểu rõ hơn tình hình thực tế, tình cảnh của người dân thuộc địa, đặc biệt là thanh niên và phụ nữ. Từ đó đặt ra nhiệm vụ cho các đảng cộng sản cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thanh niên và phụ nữ ở các thuộc địa.

Sau khi tham dự các Đại hội của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Liên Xô tiếp tục học tập tại Trường Đại học Phương Đông khoảng một năm. Đầu năm 1937, đồng chí về Sài Gòn hoạt động, được bổ sung vào Xứ ủy Nam Kỳ. Cùng với các đồng chí trong Xứ ủy, Nguyễn Thị Minh Khai đã tích cực hoạt động không ngừng, bám sát cơ sở, tổ chức các cuộc đấu tranh ở thành phố. Cuối năm 1937, đồng chí được Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và trở thành một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng 1938-1939 ở Sài Gòn. Đồng chí đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son, công nhân Công ty Hỏa Xa Sài Gòn, của công nhân và phụ nữ Hóc Môn, Gia Định; mở nhiều lớp huấn luyện cho cán bộ ở thành phố và các lớp huấn luyện cho cán bộ nữ ở các tỉnh Nam Bộ; viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng làm rõ đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề chống phản động thuộc địa, chống phong kiến và vận động phụ nữ tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Những luận điểm sắc sảo, lý luận chặt chẽ trong các bài viết của đồng chí như: “Nếu mỗi người đều lấy việc nuôi con làm trách nhiệm tột bực mà bỏ công việc xã hội thì công việc giải phóng phụ nữ không biết đến đời nào sẽ thực hiện được? Phụ nữ giải phóng là công việc của toàn thể phụ nữ đồng thời cũng là nhiệm vụ chung của mọi người(4) đã trực tiếp chống lại thuyết “Phụ nữ hồi gia”, vạch rõ nhiệm vụ quan trọng của giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng nam nữ, từng bước nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động cách mạng cho chị em phụ nữ. Từ đó, số lượng phụ nữ hăng hái tham gia các cuộc vận động, các phong trào cách mạng do đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai khởi xướng ngày càng đông. Các bà, các chị không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, đã tích cực góp sức người, sức của cho các phong trào học chữ quốc ngữ, nâng cao trình độ,thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ở Nam Kỳ ngày càng phát triển.

Tháng 11/1937, đồng chí Lê Hồng Phong - Thư ký Ban chỉ huy ở ngoài  của Đảng và cũng là người chồng thương yêu của Nguyễn Thị Minh Khai về hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Hai vợ chồng đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong có điều kiện được ở bên nhau. Tuy nhiên, đặt lợi ích của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc lên trên hết, các đồng chí dành thời gian chủ yếu cho công việc của tổ chức và không được ở cùng nhà, mà chỉ thỉnh thoảng mới được gặp nhau.

Đầu năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai sinh con gái đầu lòng Lê Nguyễn Hồng Minh. Hạnh phúc của buổi đầu làm mẹ, như bao người phụ nữ, người mẹ Việt Nam khác, đồng chí rất yêu thương con, muốn được trực tiếp chăm sóc, che trở cho con. Tuy nhiên, do yêu cầu của thực tiễn cách mạng, Nguyễn Thị Minh Khai đã phải nén lòng hy sinh tình mẫu tử thiêng liêng, gửi con gái còn đỏ hỏn, cho cơ sở cách mạng - gia đình ông bà Dương Bạch Mai nuôi, để tập trung hoạt động cách mạng. Đồng chí đã hy sinh tình riêng để đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.

Ngày 30/7/1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai không may bị sa vào tay giặc. Nhà tù thực dân đã dùng nhiều hình thức tra tấn hết sức dã man, tàn bạo nhưng không thể lay chuyển tinh thần, ý chí cách mạng trong con người Nguyễn Thị Minh Khai. Đồng chí đã lấy máu mình viết lên cánh cửa xà lim ở khám Catina những dòng bất khuất: “Dù đánh, dù treo, càng cương quyết; Dù kìm, dù kẹp, chẳng sai lời. Hy sinh phấn đấu vì nhiệm vụ. Triệt để thực hành chết mới thôi”.

Không khuất phục được Nguyễn Thị Minh Khai, thực dân Pháp đưa đồng chí ra tòa án thực dân xét xử. Trải qua 4 phiên tòa (2 phiên tòa dân sự và 2 phiên tòa quân sự), chính quyền thực dân Pháp kết án đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai 7 lần, trong đó có 2 án tử hình do tòa án binh xử với tội danh chúng gán cho là “xúi giục dân chúng làm rối loạn quốc gia” và “mưu toan lật đổ chính phủ”. Đồng chí vẫn bình thản trước âm mưu tàn bạo của kẻ thù. Tại tòa án của thực dân, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã mạnh mẽ bác bỏ mọi luận điệu sai trái, những bất công, phi lý của tòa án thực dân bằng những lời lẽ đanh thép: “Nước của tôi, cứu nước là có tội, cướp nước mà không có tội sao?”(5) và khẳng định: “Chúng mày sẽ không thể nào giết hết được những người cách mạng Việt Nam, cũng không tài nào dập tắt được cách mạng Việt Nam... Cách mạng Việt Nam sẽ thắng”(6).

Ngày 28/8/1941, đồng chí đã oanh liệt hy sinh trước mũi súng quân thù. Đồng chí hy sinh nhưng tinh thần, ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ vẫn còn vang vọng mãi tới ngày nay. 

Cuộc đời đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tuy ngắn ngủi (31 tuổi) nhưng đã thể hiện tấm gương kiên trung của người phụ nữ Việt Nam. Đồng chí đã vượt qua mọi khó khăn, gian nguy thử thách để đi theo và kiên định lý tưởng cao cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đồng thời, hoạt động và cống hiến của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã thể hiện rõ tấm gương đạo đức cao cả theo người thầy vĩ đại Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đồng chí đã thực hiện triệt để phương châm đạo đức chí công vô tư, đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, trước hết, hy sinh lợi ích cá nhân, hy sinh tình riêng, tình mẫu tử vì sự nghiệp lớn lao của dân tộc.

Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều đổi thay, mục tiêu hướng tới của sự nghiệp cách mạng cũng có nhiều thay đổi từ đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tới mục tiêu: “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Đặc biệt, vai trò, vị thế của phụ nữ đã ngày càng được nâng lên. Phụ nữ không chỉ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân mà còn vươn lên làm chủ cuộc sống của chính mình. Phụ nữ ngày càng bình đẳng với nam giới từ trong luật pháp tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham chính ngày càng tang(8). Tuy nhiên, trong điều kiện mới, việc nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ, thực hiện giải phóng triệt để phụ nữ vẫn là vấn đề được đặt ra.

Soi rọi từ quan điểm, hoạt động cách mạng và tấm gương hy sinh vì nước, vì dân, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, chúng ta có thể học được nhiều bài học quý báu.

Thứ nhất, giải phóng phụ nữ là sự nghiệp chung của toàn xã hội, do đó để nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ trong điều kiện mới cần có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bên cạnh chủ trương đúng đắn, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới làm căn cứ trong hoạt động thực tiễn.

Thứ hai, cần phát huy vai trò nỗ lực vươn lên của nữ giới. Đây là quan điểm đã thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các bài nói, viết của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai. Trong điều kiện mới, bản thân phụ nữ cần tiếp tục nỗ lực nhiều mặt để vượt qua mọi rào cản, thách thức đấu tranh vì quyền bình đẳng và sự tiến bộ của bản thân cũng như của giới mình như: không ngừng nỗ lực học tập, nâng cao trình độ, kiến thức mọi mặt; chủ động về công việc, tự lập về kinh tế; phải luôn có ý thức phấn đấu kết hợp hài hòa giữa tiến bộ nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình; phải biết chủ động đấu tranh cho quyền lợi của bản thân, tự tin vào năng lực, khả năng của chính mình; biết vượt lên chính mình để xóa bỏ suy nghĩ “tự ti”, “an bài của số phận”

Thứ ba, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần thực hiện tốt đạo đức cách mạng trong sáng, cần biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, hướng tới xây dựng một xã hội bình đẳng, đoàn kết, phát triển, văn minh và giàu mạnh.

Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã đi xa gần 80 năm, nhưng những quan điểm về giải phóng phụ nữ, hoạt động cách mạng và tấm gương đạo đức cao cả của đồng chí vẫn còn giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc./

TS. Trần Thị Huyền

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

__________________

(1) Hội Phục Việt ra đời ngày 14/7/1925. Trong quá trình tồn tại Hội đã nhiều lần thay đổi tên gọi khác nhau: Hưng Nam (3/1926), Việt Nam Cách mạng Đảng (hè 1926); Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội (7/1927 ); Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Tân Việt, 14/7/1928) (Trần Hữu Chương: Tân Việt Cách mạng Đảng (Hồi ký), bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng).

(2) 6 đại biểu gồm: Lê Hồng Phong (Lítvinốp), Nguyễn Thị Minh Khai (Thị Vai), Hoàng Văn Nọn (Cao Bằng) và ba đại biểu nữa (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.5, tr.203)

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđdt.5, tr.346-347.

(4) Bài viết Đàn bà con gái nhà Nam đăng trên tuần báo Đọc báo Dân chúng (số ra ngày 14/9/1938 và 24/9/1938)

(5) Dẫn theo Nguyễn Thế Kỷ: Nguyễn Thị Minh Khai người con ưu tú của quê hương Nghệ An, in trong sách: Nguyễn Thị Minh Khai - Nữ chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2015, tr.26.

(6) Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Ban Tuyên huấn Trung ương: Nữ chiến sĩ cách mạng-chị Minh Khai, H, 1951, tr.16.

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình đại hội XII của Đảng, tháng 2/2020, tr.12

(8) Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI là 27,31%, khóa XII là 25,76% và khóa XIII là 24,4%, khóa XIV là 26,72%.

 

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2020

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lần đầu gửi thông điệp đến Đại hội đồng Liên hợp quốc

(PLVN) - Trong khuôn khổ Phiên thảo luận chung Cấp cao Khóa 75 Đại hội đồng Liên hợp quốc (ĐHĐ LHQ) diễn ra từ ngày 22 đến ngày 29/9 tại New York (Mỹ), ngày 25/9/2020 (giờ Việt Nam), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã có thông điệp quan trọng gửi tới Hội nghị. Trân trọng giới thiệu tới độc giả toàn văn thông điệp.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gửi thông điệp tới Phiên thảo luận chung Cấp cao Khóa 75 Đại hội đồng Liên hợp quốc. Ảnh: TTXVN


Thưa Ngài Volkan Bozkir, Chủ tịch khóa 75 Đại hội đồng Liên hợp quốc,

Thưa Ngài Antonio Guterres, Tổng Thư ký Liên hợp quốc,

Thưa quý vị,

Tôi xin chúc mừng Ngài Volkan Bozkir được bầu làm Chủ tịch khóa 75 Đại hội đồng Liên hợp quốc và tin tưởng rằng, với kinh nghiệm và năng lực của mình, Ngài sẽ dẫn dắt khóa họp của chúng ta thành công tốt đẹp.

Tôi cũng xin bày tỏ đánh giá cao về những đóng góp quan trọng của Ngài Tijjani Muhammad-Bande, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 74 và Ngài Antonio Guterres, Tổng Thư ký Liên hợp quốc, trong thời gian qua, trước những thách thức không nhỏ do đại dịch COVID-19 gây ra.

Thưa Ngài Chủ tịch,

Chúng ta kỷ niệm 75 năm thành lập Liên hợp quốc và kết thúc hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI trong một bối cảnh vô cùng đặc biệt.

Lần đầu tiên trong lịch sử, lãnh đạo các quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã không thể góp mặt tại Phiên thảo luận chung cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Tuy nhiên, điều đó cũng không làm giảm nỗ lực chung của chúng ta trong trao đổi, đánh giá và tìm kiếm giải pháp cho những quan tâm chung của cộng đồng quốc tế.

Tôi chia sẻ đánh giá của Ngài Tổng Thư ký rằng, cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng nhất kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập, đặc biệt là tác động của đại dịch COVID-19 gây ra đối với kinh tế, xã hội, chính trị và trên hết là đối với cuộc sống của con người.

Thưa Ngài Chủ tịch,

Trong bối cảnh đó, tôi hoan nghênh chủ đề khóa họp lần này là "Tương lai chúng ta muốn, Liên hợp quốc chúng ta cần: Tái khẳng định cam kết chung đối với chủ nghĩa đa phương - ứng phó COVID-19 thông qua hành động đa phương hiệu quả", và tôi cho rằng:

Thứ nhất, cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực phải được tôn trọng và phát huy. Trên tinh thần đó, chúng ta cần một Liên hợp quốc cho tương lai phải thực sự là tổ chức gắn kết, ở đó mỗi thành viên, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, được đóng góp tiếng nói về những vấn đề cùng quan tâm, và cũng là "vườn ươm" cho những sáng kiến, ý tưởng hợp tác đa phương vì hòa bình, phát triển và thịnh vượng trên thế giới. Liên hợp quốc cần được tiếp tục cải tổ để trở thành một tổ chức mạnh mẽ và hiệu quả hơn, phát huy vai trò điều hòa lợi ích, ứng xử của các nước trước những biến chuyển to lớn của thời đại.

Thứ hai, Hiến chương Liên hợp quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế cần phải được đề cao và thúc đẩy như những chuẩn mực hành xử của cả các nước lớn và nhỏ trong quan hệ quốc tế đương đại. Chúng ta cần quyết tâm và kiên trì thực hiện hợp tác, hữu nghị thay cho xung đột và thù địch, đối thoại thay cho đối đầu, giải quyết hòa bình các tranh chấp thay cho hành động đơn phương, áp đặt. Trên tinh thần đó, Việt Nam kêu gọi dỡ bỏ các biện pháp cấm vận đơn phương ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội đất nước và đời sống của người dân ở các quốc gia, trong đó có các biện pháp đang áp đặt đối với Cuba.

Thứ ba, đại dịch COVID-19 chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc, thúc giục chúng ta cam kết và chung tay hành động mạnh mẽ hơn nữa để thúc đẩy phát triển bền vững, bao trùm và nhân văn. Chương trình nghị sự 2030 cần tiếp tục là khuôn khổ để chúng ta vừa hợp tác vượt qua đại dịch, vừa phục hồi bền vững, lấy lợi ích của người dân làm trung tâm của mọi chính sách và hành động, để bảo đảm không một người dân, không một quốc gia nào bị bỏ lại phía sau. Các nước đang phát triển cần được tạo điều kiện và hỗ trợ về tài chính, công nghệ và thương mại để thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững.

Thưa Ngài Chủ tịch,

Cách đây 75 năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Người đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo sáng lập Liên hợp quốc bày tỏ ý nguyện của Việt Nam tham gia Liên hợp quốc. Mặc dù phải tới năm 1977, nguyện vọng đó mới thành hiện thực, song chính cuộc đấu tranh bền bỉ của Việt Nam giành và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước là những đóng góp cụ thể cho sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, cũng là những mục tiêu cao cả mà Liên hợp quốc hướng tới. Nhân dịp này, thay mặt nhân dân Việt Nam, tôi xin chân thành bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ rộng rãi của các nước, bạn bè quốc tế dành cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam từ trước đến nay.

Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh và chịu bao vây cấm vận, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình và đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 hiện nay, dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực, quan trọng, thực hiện có hiệu quả mục tiêu vừa kiểm soát dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Với tinh thần đoàn kết quốc tế và với nhận thức rằng, chúng ta chỉ có thể chiến thắng đại dịch khi tất cả các quốc gia cùng chiến thắng, Việt Nam đã và sẽ tiếp tục hỗ trợ, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với nhiều nước, nhất là những nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, tăng cường đóng góp cho các nỗ lực quốc tế liên quan.

Với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn phát huy quan hệ hợp tác toàn diện với Liên hợp quốc, góp phần xây dựng một thể chế đa phương toàn cầu công bằng, minh bạch và hiệu quả.

Trong vai trò là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực thúc đẩy đối thoại, giảm căng thẳng, đối đầu, tìm giải pháp công bằng, hợp lý để giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế; thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; tăng cường hợp tác giữa Liên hợp quốc với các tổ chức khu vực, đặc biệt là ASEAN.

Trên cương vị là Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam cùng các nước thành viên đang hết sức nỗ lực để xây dựng một khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác, từng bước trở thành một Cộng đồng ngày một gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế, và sẻ chia trách nhiệm xã hội. Chúng tôi khẳng định cam kết cùng các nước trong và ngoài khu vực duy trì, thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; tuân thủ các nguyên tắc kiềm chế, tránh các hành động đơn phương làm phức tạp tình hình, giải quyết tranh chấp và khác biệt bằng các biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý.

Thưa Ngài Chủ tịch,

Suốt 75 năm qua, các quốc gia đã cùng nhau xây dựng một Liên hợp quốc vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Chúng ta có trách nhiệm tiếp tục củng cố và tăng cường sức sống cho Tổ chức đa phương lớn nhất thế giới này trước các thách thức và cơ hội to lớn của thế kỷ XXI.

Xin trân trọng cảm ơn.

Ti hp báo thường kỳ ca B Ngoi giao ngày 17/9, Người phát ngôn B Ngoi giao Vit Nam Lê Th Thu Hng cho biết, đây là ln đu tiên Tng Bí thư, Ch tch nước Vit Nam tham gia gi thông đip đến Đi hi đng Liên hp quc. Điu này cũng th hin thông đip cp cao nht ca Đng và Nhà nước Vit Nam v ch trương và đường li đi ngoi ca Vit Nam.

#Ngẫm

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Bộ Công an cảnh báo về thủ đoạn mạo danh cán bộ các cơ quan tư pháp gọi điện thoại lừa đảo

Baothanhhoa.vn) - Bộ Công an cảnh báo người dân cần nâng cao cảnh giác trước những cuộc điện thoại của người lạ tự xưng là cán bộ của các cơ quan tư pháp, tiến hành tố tụng.

Thời gian qua, tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao để phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng nhiều và có diễn biến phức tạp, với nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi, có xu hướng đan xen, kết hợp giữa nhiều hình thức lừa đảo khác nhau; có những vụ án mang tính chất lừa đảo xuyên quốc gia trên không gian mạng, gây thiệt hại lớn về tài sản và bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Người dân cần cảnh giác với các cuộc điện thoại có hiển thị số giống hệt số điện thoại công khai của Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Bưu điện, Ngân hàng, Bảo hiểm...

Lực lượng Công an đã và đang tập trung triệt phá các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, triển khai đồng bộ nhiều biện pháp góp phần giữ an toàn, lành mạnh trên hệ thống mạng tại Việt Nam. Thế nhưng, do sự chủ quan và thiếu cảnh giác, đề phòng của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, đã khiến cho các đối tượng phạm tội vẫn có thể dễ dàng lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Chỉ tính riêng các vụ lừa đảo được người dân trình báo, tố giác, trong 6 tháng đầu năm 2020, Công an 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã tiếp nhận 776 vụ, với số tiền bị lừa đảo lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, nổi lên là phương thức thủ đoạn lừa đảo giả danh, mạo danh Công an, Viện kiểm sát, Thanh tra, Tòa án, Bưu điện... để chiếm đoạt tài sản gia tăng mạnh, chiếm tỷ lệ trên 65% số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng.

Bộ Công an cảnh báo thủ đoạn giả danh, mạo danh cán bộ làm việc trong các cơ quan tư pháp, mà các đối tượng thường sử dụng có đặc điểm chung là: Chúng sử dụng công nghệ cao, ẩn danh dưới số điện thoại giống hệt số điện thoại công khai của cơ quan Công an, Viện Kiểm sát để gọi điện cho bị hại, thông báo họ đang bị kiện vì nợ tiền hoặc có liên quan đến một vụ án, chuyên án mà Cơ quan Công an đang điều tra, xác minh, đã có lệnh bắt của Viện Kiểm sát nhân dân...; yêu cầu bị hại kê khai tài sản, số tiền mặt hiện có và số tiền gửi trong các tài khoản ngân hàng. Sau đó, các đối tượng dùng lời lẽ đe dọa sẽ bắt tạm giam nạn nhân để điều tra và yêu cầu họ chuyển tiền hoặc đọc mã OTP để chúng thực hiện việc chuyển tiền vào các tài khoản của chúng với vỏ bọc để xác minh, điều tra.

Ngoài ra, còn có một đặc điểm khác của các đối tượng lừa đảo trên không gian mạng mà người dân có thể dễ dàng nhận biết, đó là: Các đối tượng yêu cầu bị hại không được kể câu chuyện vừa trao đổi cho bất kỳ ai, mục đích nhằm để nạn nhân không có đủ thời gian để kiểm tra thông tin, không trình báo cho cơ quan Công an được biết. Mặc dù nhiều bị hại không có khuất tất, không có sai phạm, nhưng trước những lời đe dọa, thúc giục của các đối tượng dẫn đến lo lắng và không đủ tỉnh táo để nhận biết sự việc bị lừa đảo.Qua công tác nắm tình hình, số bị hại bị các đối tượng lừa đảo bằng hình thức mạo danh, giả danh cán bộ các cơ quan tư pháp rất đa dạng, đa phần thường là phụ nữ và người già trên 60 tuổi, nhưng cá biệt có trường hợp các bị hại là cán bộ của các cơ quan Nhà nước... Đây đều là những bị hại ít cập nhật thông tin xã hội, báo chí; thiếu ý thức cảnh giác với tội phạm; không có kiến thức về bảo mật thông tin cũng như hiểu biết về các hoạt động tố tụng hình sự. Khi xảy ra vụ việc, nạn nhân không biết thông tin về đối tượng, không biết tại sao bị mất tiền trong tài khoản, hoặc lo sợ bị mất uy tín nên không trình báo với cơ quan Công an, gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý.Bộ Công an nêu rõ, Cơ quan Công an các cấp khi làm việc, xác minh, điều tra với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sẽ có cán bộ đến làm việc trực tiếp hoặc có văn bản thông báo, triệu tập gửi đến chính quyền địa phương, địa chỉ công ty, thân nhân gia đình và người mà cơ quan Công an muốn làm việc. Tuyệt đối không làm việc thông qua điện thoại và mạng xã hội.Bộ Công an khuyến cáo, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cần đề cao cảnh giác khi nhận các cuộc gọi điện thoại từ người lạ, tự xưng là cán bộ các cơ quan nhà nước và các cơ quan tư pháp, tiến hành tố tụng hình sự, để thông báo, yêu cầu điều tra vụ án qua điện thoại hoặc giả danh nhân viên ngân hàng, bưu điện, bảo hiểm, thanh tra, hải quan... yêu cầu nhận tiền, quà bưu phẩm có giá trị lớn hoặc đóng các khoản phí, trả các khoản nợ không xác định.

Đồng thời, tuyệt đối không cung cấp thông tin cá nhân, số điện thoại, số chứng minh thư (căn cước công dân), địa chỉ nhà ở, số tài khoản ngân hàng, mã OTP trên điện thoại cá nhân... cho bất kỳ ai không quen biết hoặc khi chưa biết rõ nhân thân, lai lịch. Khi gặp những tin nhắn thông qua các trang mạng xã hội để vay tiền, nhờ mua thẻ điện thoại, yêu cầu chuyển tiền để xác minh tài khoản; nhờ tài khoản ngân hàng để nhận tiền từ nước ngoài... thì cần đặc biệt cảnh giác, tuyệt đối không làm theo; nhanh chóng liên hệ hoặc gọi điện thoại nói chuyện trực tiếp với người đó để kiểm tra thông tin.Thường xuyên thay đổi mật khẩu hoặc tăng tính năng bảo mật quyền riêng tư trên các tài khoản mạng xã hội; không chia sẻ quá nhiều thông tin cá nhân trên các trang mạng xã hội. Không chia sẻ số tài khoản ngân hàng trên mạng xã hội; nếu cần có tài khoản ngân hàng công khai để giao dịch mua bán trên không gian mạng, thì tiền trong số tài khoản công khai cần giữ ở mức thấp nhất để tránh bị kẻ gian chiếm đoạt.Khi nhận các cuộc điện thoại có dấu hiệu nêu trên, người dân cần bình tĩnh, không lo sợ, nhanh chóng liên hệ với người thân, bạn bè để được tư vấn. Trường hợp có nghi ngờ về hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì kịp thời thông báo cho Cơ quan Công an nơi gần nhất hoặc tra cứu địa chỉ tố giác tội phạm trên Chuyên mục “Hướng dẫn tố giác tội phạm” của Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an (địa chỉ http://bocongan.gov.vn hoặc http://mps.gov.vn) để được tiếp nhận và hướng dẫn giải quyết.

Ngẫm

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

Không thể xuyên tạc và bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh

(TG)- Chỉ cần hiểu đúng về lịch sử, viết đúng sự thật lịch sử thì mỗi người đều nhận thấy rất rõ rằng, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách và "tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại nhằm thực hiện một khối cộng đồng anh em thực sự của nhân dân các nước được hưởng quyền bình đẳng và được thoả mãn đầy đủ về những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới không có chiến tranh, không có sự tàn bạo, nghèo khổ và phân biệt đối xử"[1].



ĐỪNG LÀM NHỮNG VIỆC TRÁI VỚI LƯƠNG TÂM MÌNH

Hằng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2), Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5), Ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và Quốc khánh (2/9) thì diễn đàn mạng lại "sôi nổi" các bài viết, phát biểu nhằm xuyên tạc, bôi nhọ và "hạ bệ thần tượng" Hồ Chí Minh thông qua các sự kiện lịch sử được nhìn nhận một cách méo mó, cắt cúp có chủ ý. Đó chính là một trong những mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. 

Đọc các bài viết theo kiểu tung tin tạo sóng ngầm trong biển này, có thể thấy:

1) Vũ Đông Hà không chỉ thiếu trái tim mà bộ óc cũng có vấn đề khi vu khống và bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Việt Nam, không có bệnh "cuồng lãnh tụ" và cũng không có "đám đông cuồng lãnh tụ" như đơm đặt mà chỉ có một điều cần phải khẳng định: "Sau cuộc bể dâu" của thân phận nô lệ, mỗi người dân Việt Nam yêu nước khi nhìn lại dòng sông "cuồng nộ" như Vũ Đông Hà đã viết trong bài và ký ức lầm than đã trải qua lại càng trân quý hơn con đường cứu nước đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những nỗ lực của Người và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc.

2) Sơn Nghị không chỉ khập khiễng khi suy diễn so sánh Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thành Cát Tư Hãn, Trần Hưng Đạo mà còn bôi nhọ Người khi nhận định sai và quy kết sự kiện Phan Bội Châu bị bắt và cái chết của cụ Huỳnh Thúc Kháng thời kỳ nhân dân Việt Nam tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp có liên quan đến Người; sự kiện Người đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945... Sơn Nghị thật nông nổi khi suy diễn về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì Người không khi nào và không bao giờ "tự đánh bóng" mình khi xưng là Cha già dân tộc, lại càng không khi nào mạo xưng mà luôn khiêm nhường, gần gũi và uyển chuyển trong từng cách xử thế.

Với đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Tôi nói đồng bào nghe rõ không?; lần khác Người nói: Hỡi đồng bào cả nước, Thưa đồng bào hay Thưa đồng bào yêu quý… Với những người như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Người gọi là tiên sinh; với giám mục Lê Hữu Từ, Người gọi là ngài; với cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là cụ; với Chủ tịch Quốc hội, Người gọi là cụ Chủ tịch…Còn chữ Già Hồ lần đầu tiên xuất hiện là trong bài viết Tết trung thu với nền độc lập ngày 17/9/1945: "Trung thu này, Già Hồ không có gì gửi tặng các em. Chỉ gửi tặng các em một trăm cái hôn thân ái". Không phải Chủ tịch Hồ Chí Minh tự xưng với cả dân tộc mà là mọi người dân Việt Nam kính yêu Người và gọi Người là Cha già dân tộc.

 3) Nguyễn Thị Cỏ May và Lâm Văn Bé, Nguyễn Thị Cỏ May đã xuyên tạc, bôi nhọ, nói láo, phủ nhận Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn được UNESCO vinh danh. Bởi rằng, chỉ có những người vô lương tâm, vô đạo đức mới bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh - một trong những vĩ nhân của thế kỷ XX, Người từng được UNESCO vinh danh kép là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn.

Trên thực tế, không ai có quyền nghi ngờ Nghị quyết 24C/18.65 phiên họp Đại hội đồng lần thứ 24 (20/10 - 20/11/1987) của UNESCO đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hoá lớn nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người (19/5/1890). Văn kiện quan trọng của một tổ chức quốc tế lớn thuộc Liên hợp quốc này đã ghi nhận những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội… Lại càng không ai có quyền phủ nhận việc Ðại Hội đồng UNESCO đã khuyến nghị các nước thành viên "cùng tham gia Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể để tưởng niệm Người, qua đó làm cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của những tư tưởng và những cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người". Đồng thời, đề nghị ông Tổng Giám đốc UNESCO "triển khai các biện pháp thích hợp để Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và hỗ trợ các hoạt động kỷ niệm được tổ chức nhân dịp này, đặc biệt là những hoạt động sẽ diễn ra ở Việt Nam"[2]…

4) Trần Gia Phụng không chỉ lộ rõ sự hằn học mà còn bẻ cong ngòi bút của mình khi cố tình suy diễn và cắt cúp thông tin có chủ ý xấu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi "Kết luận: Hồ Chí Minh = Tội đồ dân tộc". Trần Gia Phụng từng là người dạy môn Lịch sử và Địa lý mà lại không phân tích nguồn sử liệu một cách khoa học để rồi vội quy kết, gieo giắc thứ "gió độc" bằng những ngôn từ quy chụp nhằm kích động và gây tâm lý hoang mang trong cộng đồng. Song có thể nói rằng, thời gian càng lùi xa, mỗi người càng có thời gian để chiêm nghiệm, để cảm nhận sâu sắc hơn về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi đó chính là "những người trên thế giới này, ngay trong một nước cũng như từ nước này sang nước khác, có bao nhiêu điều không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau về cảnh ngộ sống, về trình độ hiểu biết, về xu hướng chính trị, xã hội hay tôn giáo; nhưng miễn là không phải bọn áp bức bóc lột, bọn xâm lược và tay sai của chúng, thì mỗi người đều có thể thấy ở cuộc chiến đấu và cuộc sống của Hồ Chủ tịch, những điều mà mình hàng ngày mong mỏi, những giá trị tinh thần mà mình thiết tha, những mục tiêu mà mình khao khát muốn vươn tới”[3].

Tất cả những luận điệu suy diễn, bịa đặt, quy chụp và xuyên tạc... nêu trên là suy nghĩ và hành động của những kẻ vô ơn, bạc nghĩa - những kẻ lừa mị nhân dân, đổi trắng thay đen hòng làm nhụt đi lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Những kẻ này đã không nhận thức được rằng, với Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930), đó là "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[4]. Đồng thời, kiên định con đường đó, hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã nỗ lực vượt mọi gian khó, từng bước giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và tiếp tục giành được những thành tựu quan trọng trong 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Vì thế, dã tâm đen tối, thiển cận của những người nhân danh yêu nước, giả danh yêu nước, giả danh dân chủ, dân chủ cuội kiểu phản dân, hại nước như Sơn Nghị, Vũ Đông Hà, Lâm Văn Bé, Nguyễn Thị Cỏ May, Trần Gia Phụng bộc lộ trong những bài viết nêu trên đã bị vạch trần. Chủ đích gây tâm lý hoang mang, kích động người dân, chống Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam của các người thật là lố bịch.

HỒ CHÍ MINH SỐNG MÃI TRONG LÒNG NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ BẠN BÈ QUỐC TẾ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song dấu ấn Người để lại trong thế kỷ XX thật đặc biệt. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị với bản Yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 cho đến khi từ biệt thế giới này năm 1969 và hơn 50 năm sau khi Người đi xa, những nghiên cứu, đánh giá trong các trang viết, bài phát biểu về Người dường như vẫn cứ nối dài mãi. Bao nhiêu năm qua, từ tận đáy lòng, từ trái tim đồng cảm, từ sự nghiên cứu khoa học và khách quan, sâu sắc, thế giới viết về Người, Việt Nam viết về Người vẫn là những ghi nhận sự cống hiến, tấm gương đạo đức cách mạng… với những lời hay nhất, đẹp nhất, xúc động nhất.

Cho nên, còn những ai đang băn khoăn, chưa hiểu đúng hay thậm chí cố tình không hiểu đúng về Chủ tịch Hồ Chí Minh; cố tình xuyên tạc, phủ nhận, bịa đặt và bôi đen về Người có thể và rất cần phải biết những vấn đề trọng tâm này:

Một là, những thông tin về cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đầy đủ trong các cuốn tiểu sử, các công trình nghiên cứu chuyên khảo, tham khảo (từ vài trăm trang cho đến gần trăm trang, vài trang; từ bản tóm tắt đến bản đầy đủ) được công bố rộng rãi bởi các cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học về lịch sử, lịch sử Đảng, về Hồ Chí Minh, chính trị học… đầu ngành ở cả trong nước và quốc tế…. Vì thế, đừng nhân danh ai để bám chấp vào những thông tin sai, thông tin một chiều, không được kiểm chứng để lúc này, lúc khác, tháng này tháng khác, năm này năm khác "bổn cũ soạn lại" vạch vòi, bêu riếu, nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đừng nông nổi và suy diễn với kiểu áp đặt để nhận định Chủ tịch Hồ Chí Minh có họ Hồ chứ không phải họ Nguyễn; thân thiết với làng Chùa quê ngoại chứ không phải làng Sen quê nội; có vợ và có con… bởi đó là những thông tin bịa đặt, được thêu dệt, cắt xén có chủ ý từ những thông tin lệch chuẩn, không được kiểm chứng. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau thì cũng chỉ có một sự thật, đó là những thông tin chính thống đã được công bố, chứ không phải là những thông tin vỉa hè nhằm kích động và câu like. Thế giới có thể đổi thay, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Cuộc đời Người thực sự là một tấm gương đạo đức và nhân cách thanh cao của người chiến sĩ cách mạng, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân và “Người được yêu mến, khâm phục và kính trọng trên toàn thế giới”[5], bởi rằng, "tuy thuộc nhân dân Việt Nam, Người vẫn thuộc vào gia tài của nhân loại, cái gia tài của mọi dân tộc yêu tự do, giải phóng đã phải tiến hành đấu tranh chống lại ách thực dân hay đế quốc”[6].

Hai là, Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ, là ánh sáng soi đường… Người là sự kết tinh những gì ưu tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống, cốt cách và bản lĩnh, bản sắc và tinh hoa văn hoá, lương tâm và khí phách con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam vốn là một dòng chảy liên tục; trong dòng chảy đó, nhân dân ta luôn khát khao một đất nước được hòa bình, độc lập, tự do, nhân dân được ấm no, hạnh phúc và những khát vọng lớn lao đó chỉ trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.

Thực tế là, trước mùa xuân năm 1930, trong đêm tối mịt mù của thân phận nô lệ, chịu sự bóc lột tàn khốc của chế độ thực dân, đã có rất nhiều phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của các vị tiền bối cách mạng và nhân dân ta vẫn trào dâng, song chưa thể làm cho dân tộc được giải phóng, nhân dân được tự do. Tinh hình đất nước khi đó như đêm tối mà chưa có đường ra; và khi ấy, nếu không có một người thanh niên yêu nước và đầy nhiệt huyết Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân ngày 5/6/1911, thì cũng sẽ không có một con đường đi đúng của dân tộc Việt Nam trên hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do.

Hồ Chí Minh từ một người yêu nước tiến bộ đã không chỉ đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (Đại hội Tua, 1920), người cộng sản Việt Nam đầu tiên - người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc; là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam, đào tạo một thế hệ cán bộ cách mạng được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 mà còn trực tiếp lãnh đạo toàn dân tiến hành thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1945-1975) vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất…

Ba là, một lãnh tụ yêu nước và thương dân, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không thể và không khi nào có một chủ trương, một "chính sách phản dân, hại nước" và càng không có "tham vọng vĩ cuồng của lãnh tụ". Chỉ có một sự thật là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình để thực hiện khát vọng: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu"[7] và “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”[8]…

Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực của đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, của tình thương yêu và lòng khoan dung, nhân ái mà “gia đình của Người là Nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn đo"[9]. Vì thế, đúng là "trong bóng đêm thuộc địa, trong cơn khô khốc của khát vọng độc lập dân tộc", khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con đường cứu nước của Người, ngọn cờ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam do Người đứng đầu giương cao chính là "chiếc phao giữa đại dương tuyệt vọng", đã hấp dẫn và quy tụ quần chúng nhân dân đang sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp; đã cổ vũ mọi người dân Việt Nam yêu nước ủng hộ, tin tưởng và đi theo Đảng, kiên trì đấu tranh cách mạng, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX.

Lịch sử cách mạng Việt Nam và lịch sử thế giới hiện đại ghi nhận rằng, một nước Việt Nam mới ra đời sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 không chỉ đem lại vị thế làm chủ, là chủ cho mọi người dân Việt Nam mà còn là minh chứng sinh động cho con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình, tự do và công lý trên toàn thế giới đều ghi nhận những cống hiến của Người đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, góp phần để mỗi người được thụ hưởng những giá trị cao cả nhất của quyền con người như Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã nêu chứ không phải Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã "dùng vỏ bọc "Ái Quốc" mang họ Nguyễn… và tấm khiên đóng dấu "Giải phóng Dân tộc" đã bịt mắt, che tai tất cả" để "bênh vực, biện hộ cho mọi sai trái của lãnh tụ bằng mọi giá" như những gì các người đã bịa đặt, vu khống.

Bốn là, dù tiếp cận ở chiều cạnh nào và bằng các nguồn tư liệu nào (ở đây cần tính chính xác, minh bạch của nguồn dẫn) thì các chính khách, giới nghiên cứu ở trong và ngoài nước, ở các nước xã hội chủ nghĩa cho đến tư bản chủ nghĩa, người Việt Nam ở trong nước hay kiều bào ta ở nước ngoài… cũng đều đánh giá và khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam - người đã nỗ lực hết sức mình phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc và ấm no của nhân dân Việt Nam; là người chiến sĩ cộng sản quốc tế thủy chung, trong sáng, luôn đấu tranh cho hòa bình, tự do và công lý, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; người là mẫu mực của tấm gương người chiến sĩ cộng sản hết lòng vì nước, vì dân…

Chủ tịch Hồ Chí Minh  - "Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"[10]. Hơn thế nữa, "Hồ Chí Minh thuộc về tương lai, vì Hồ Chí Minh đã tạo ra tương lai vĩ đại ấy... Người là một người làm nên lịch sử hiện đại. Người đã trở thành một nhà kiến trúc và tạo hình của quá trình cách mạng thế giới trong thời kỳ có tính chất bùng nổ nhất ... Người đã trở thành ngọn đèn biển soi sáng đường đi cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới... Có lẽ hơn bất  kỳ người nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc mình và đối với cả thế giới, Hồ Chí Minh là hiện thân của cách mạng... Người là một trong những nhân vật cao quý nhất, đáng yêu nhất của thời đại chúng ta"[11].

Năm là, thời gian có thể đổi thay, song tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta trên hành trình đi đến tương lai. Bởi rằng, “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”[12] đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi và đó chính là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta, dân tộc ta.

Hơn 90 năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) và tròn 75 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) khai sinh nước Việt Nam mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam vẫn tiếp tục soi sáng con đường đi đến tương lai của dân tộc Việt Nam. Tấm gương đạo đức cách mạng ngời sáng và phong cách của một vị lãnh tụ gần dân, luôn yêu thương và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, mong muốn giải quyết những yêu cầu, bức xúc của nhân dân vẫn hiển hiện qua những câu chuyện kể, những hồi ký, những mảng ký ức không thể phai mờ của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam và thế giới; của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và kiều bào ta ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế - những người từng được gặp gỡ, nói chuyện, làm việc cùng Người…

Ngắn gọn thế để khẳng định rằng, mỗi một mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đều gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Đảng Cộng sản Việt Nam và thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thời đại của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần Việt, ý chí và khát vọng Việt trào dâng, nỗ lực đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, mỗi người dân Việt Nam yêu nước đều thấu hiểu sâu sắc rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ xuất thân từ nhân dân, đau cùng nỗi đau nước mất nhà tan với nhân dân, nung nấu một lòng yêu nước nồng nàn, một khát vọng giải phóng đồng bào khỏi những năm tháng bị đọa đầy đau khổ, nên với Người, không có gì là của riêng mà chỉ có hết lòng vì nước, vì dân.

Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức cách mạng hành động và phong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏa ra, hoà nhập với pháp luật và chính trị, kết hợp giữa đức trị và pháp trị, chính là “chính trị cách mạng trong đạo đức” và “soi sáng chính trị từ bên trong” chứ không giống như những gì các nhà dân chủ cuội xuyên tạc. Thời gian càng lùi xa, những nghiên cứu, đánh giá toàn diện, đầy đủ hơn về Chủ tịch Hồ Chí Minh càng trở nên có ý nghĩa và giá trị lớn lao. Nó cho thấy, khi suy luận thiếu căn cứ khoa học, phi sự thật, xuyên tạc, xúc phạm, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính các người đã xúc phạm vào niềm tin yêu, sự kính trọng của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế dành cho Người. Và cũng vì thế, hãy đừng làm những điều trái với lương tâm, đạo lý và sự thật!

TS. Văn Thị Thanh Mai

 

-------------

 

 

[1] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1970, t.1, tr.75

[2] Nghị quyết 24C/18.65 của UNESCO về  Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản dịch của Bảo tàng Hồ Chí Minh và UNESCO Việt Nam, tháng 7/2009, tài liệu lưu Bảo tàng Hồ Chí Minh

[3] Phạm Văn Đồng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa khí phách của dân tộc, lương tri của thời đại, Báo Nhân dân, 19/5/1970

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1

[5] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.41

[6] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội,  Hà Nội, 1990, tr.43

[7] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1, tr. 94

[8] T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.11

[9] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.130

[10] Điếu văn do đồng chí Lê Duẩn đọc tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969

[11] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1990, tr.19- 20

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.633

 

Hãy tôn trọng quyền công dân của ông Thích Minh Tuệ

[CAND] Thời gian gần đây, hiện tượng liên quan ông Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) tiếp tục gây ồn ào trên mạng xã hội. Mặc dù những thông tin lợ...