Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

BÀN VỀ CHỮ "NGỤY" VÀ CHÍNH QUYỀN BÙ NHÌN


  
        Càng gần ngày 30/4, trên mạng xã hội càng xuất hiện những bài viết về chế độ ngụy quyền Sài Gòn, cho rằng, chế độ VNCH không phải là ngụy quyền mà nó là chính quyền hoàn chỉnh, đối lập với nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong số các cá nhân ủng hộ quan điểm trên, không thiếu những kẻ mà trước đây là Đảng viên, ăn cơm chế độ XHCN. Tại sao họ ủng hộ quan điểm này? Bên cạnh việc ủng hộ một chế độ thây ma cách đây 45 năm, ý đồ sâu xa của họ là muốn thay đổi bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, từ chiến tranh vệ quốc trở thành cuộc “nội chiến”, “nồi da nấu thịt”.
        Vậy VNCH là chính quyền hay ngụy quyền. Làm rõ vấn đề này, chúng ta phải hiểu rõ về chữ ngụy. Chữ “ngụy” đã được sử dụng từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam, nhằm ám chỉ những chế độ, triều đình mang tính không chính danh, soán quyền, đoạt ngôi. Nhà sử học Trần Trọng Kim, trong cuốn sách “Việt Nam sử lược” đã viết: “Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng lập ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm bề tôi mà cướp ngôi, làm sự thoán đoạt không thành; hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa; ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều”.
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, giày, trẻ em và ngoài trời
                              Ảnh: Cách người dân Mỹ nghĩ về chế độ VNCH

        Thời đế quốc Mỹ xâm lược, chúng thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam - là chính phủ bù nhìn, do Mỹ thao túng - nên bị Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam coi là “ngụy quyền”. Một chế độ sẵn sàng bắn giết đồng bào mình, một chế độ yêu cầu một nước ngoại bang ném bom hủy diệt đồng bào mình ở miền bắc để đạt mưu đồ chính trị của mình, chế độ đó không là ngụy thì là gì. Tổng thống Mỹ Nixon trong lúc giận dữ từng nói: “Không thể để cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được” (Những năm tháng ở Nhà Trắng của Henry Kissinger, xuất bản năm 1979). Tại cuộc họp do Hội “American Friends of Vietnam” - một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C ngày 1-6-1965, John Kennedy (sau này là Tổng thống Mỹ) đã tuyên bố: “...nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ (chỉ Việt Nam Cộng hòa) thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa lúc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó”. Điều này đã khẳng định rõ Mỹ là kẻ thù chính, còn “ngụy quyền, ngụy quân” chỉ là bù nhìn, tay sai bị lầm đường lạc lối, nếu Mỹ thất bại ở Việt Nam thì “ngụy quyền” tất yếu sụp đổ. Vì vậy, chúng ta xác định chỉ tiến hành đấu tranh với Mỹ, gọi đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứ không phải là chống ngụy cứu nước, không hoàn toàn xem “ngụy quân”, “ngụy quyền” là kẻ thù.
        Như vậy, về nguồn gốc ra đời, cả Quốc gia Việt Nam thời Pháp và Việt Nam Cộng hòa thời Mỹ đều do nước ngoài dựng lên, để chống lại một chính phủ hợp hiến, hợp pháp duy nhất lúc đó của Việt Nam là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vì thế, không có gì là miệt thị, phản cảm, hay không khoa học, không khách quan khi mà cả thế giới vẫn sử dụng những ngôn từ mạnh mẽ như “ngụy”, “bù nhìn”, “tay sai”, “con rối” để chỉ một chính phủ do nước ngoài tạo dựng nên nhằm phục vụ quyền và lợi ích của kẻ xâm lược. Chỉ có những hành động “lật sử”, đòi xét lại lịch sử, “ngụy sử” mới là phản cảm, đáng bị lên án mà thôi.

S.T

VIỆT NAM CÓ TỶ LỆ PHÁT HIỆN DƯƠNG TÍNH TRÊN TỔNG SỐ MẪU CAO NHẤT THẾ GIỚI

Mặc dù hôm nay là ngày thứ 11 không có ca nhiễm trong cộng đồng nhưng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19 yêu cầu các bộ, ngành căn cứ và hướng dẫn của Chính phủ, Bộ Y tế tiếp tục rà soát các hướng dẫn cụ thể bảo đảm an toàn, phòng, chống dịch theo lĩnh vực quản lý.
Các địa phương tham khảo kinh nghiệm của một số tỉnh, thành như TP HCM để đưa ra các bộ tiêu chí đánh giá mức độ an toàn, phòng, chống dịch phù hợp với các hoạt động trong đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh… trên địa bàn.
Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống dịch COVID-19 ngày 27/4 đã bàn về nội dung: đưa công dân về nước, đưa lao động có tay nghề vào Việt Nam, cấp phép các chuyến bay, quản lý biên giới, thực hiện cách ly; bảo đảm thuốc men, sản xuất trang thiết bị vật tư y tế và các loại máy thở (Metran, Vinmex, Đại học Điện lực); phương án xuất khẩu khẩu trang; chế độ chính sách đối với các lực lượng tham gia phòng chống dịch.
Ban Chỉ đạo đặc biệt lưu ý các doanh nghiệp sản xuất khẩu trang phải hết sức trách nhiệm vì cộng đồng, vì đất nước, cam kết trước khi xuất khẩu phải ưu tiên cho nhu cầu trong nước, bảo đảm chất lượng. Các hành vi vi phạm phải bị xử lý nghiêm.
Tại cuộc họp, Ban Chỉ đạo đã bàn về công tác xét nghiệm phát hiện virus SARS-CoV-2 để phục vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong thời gian tới. Hiện, trên thế giới đang triển khai song song 2 phương pháp xét nghiệm xác định người dương tính COVID-19 là xét nghiệm tìm gen virus (phương pháp PCR) và xét nghiệm kháng thể (thường sử dụng để xét nghiệm nhanh).
Phương pháp PCR có độ chính xác cao vì phát hiện trực tiếp gen của virus, nên tại thời điểm dương tính thì bệnh nhân chắc chắn đang có virus SARS-CoV-2 trong người. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi các khâu chuyên môn hóa cao, cần có chuyên gia thực hiện với nhiều máy móc phức tạp, thời gian cho kết quả lâu (vài giờ).
Ảnh minh họa.
Trong khi đó, phương pháp xét nghiệm nhanh tìm kháng thể có thời gian ngắn, vận hành đơn giản, người làm xét nghiệm không cần thiết phải được đào tạo chuyên biệt, không cần thiết bị đặc biệt kèm theo. Tuy nhiên, phương pháp này có độ nhạy, độ đặc hiệu thấp hơn nhiều so với phương pháp PCR, dễ nhầm và bỏ sót.
Tới nay, chúng ta đã xét nghiệm được khoảng 212.000 mẫu bệnh phẩm, phát hiện 270 trường hợp mắc COVID-19, tỷ lệ phát hiện dương tính khoảng 0,13%, là một trong những quốc gia có tỷ lệ phát hiện dương tính trên tổng số mẫu xét nghiệm cao nhất thế giới.
Hiện cả nước có 112 phòng xét nghiệm Realtime - PCR có năng lực xét nghiệm phát hiện SARS-CoV-2 (công suất tối đa khoảng hơn 27.000 mẫu/ngày), trong đó 48 phòng đã được phép xét nghiệm khẳng định COVID-19 (công suất tối đa khoảng 14.300 mẫu/ngày).
Ban Chỉ đạo cũng đánh giá cao các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, sản xuất máy thở hiện đại như Metran, Vingroup; đồng thời khuyến khích các trường đại học phát triển những sản phẩm máy thở không xâm nhập đơn giản, vận hành hoàn toàn bằng hệ thống cơ khí có thể trang bị đến tận y tế tuyến xã, ở vùng sâu, vùng xa…
Như vậy, đến thời điểm hiện tại có thể nói trong công tác phòng chống dịch COVID-19, chúng ta đã bảo đảm được các loại thuốc có thể dùng cho những phác đồ điều trị COVID-19; chủ động sản xuất được khẩu trang, trang thiết bị bảo hộ, máy thở...; tự sản xuất được sinh phẩm xét nghiệm và làm chủ các phương pháp xét nghiệm, sàng lọc và phát hiện người nhiễm COVID-19.

NGƯỜI PHẤT CỜ GIẢI PHÓNG TẠI DINH ĐỘC LẬP

Ngày 30/4/1975, sau khi xe tăng của quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, lực lượng đặc công cũng đã có mặt tại đây. Và ông Phạm Duy Đô, đại đội trưởng đơn vị đặc công đã lên tầng hai Dinh Độc Lập, rồi ra ban công phất cờ chiến thắng, làm tín hiệu cho bộ đội ta tiếp tục tiến vào…
Đại đội trưởng đặc công Phạm Duy Đô (cầm cờ) trong những ngày tháng 4/1975 lịch sử. Ảnh: T.L

Đại đội trưởng đặc công Phạm Duy Đô (cầm cờ) trong những ngày tháng 4/1975 lịch sử. Ảnh: T.L
Định phá cầu rồi lại giữ cầu
Cuối năm ngoái, tôi được ông Ngô Sĩ Nguyên, cựu pháo thủ số 1 xe tăng 390 - xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975- mời đến nhà chơi. Đến nơi, tôi có dịp gặp lại ông Nguyễn Văn Tập, lái xe tăng 390 và một số cựu binh “lính tăng” khác mà tôi đã quen biết. Trong số vài người lạ có mặt tại đây, tôi để ý đến một người đàn ông nhỏ bé, lưng hơi gù, có đôi mắt rất sắc. Ông Nguyên giới thiệu: “Đây là anh Phạm Duy Đô, đại đội trưởng đặc công, người có mặt sớm tại Dinh Độc Lập trong ngày 30/4”.
Người phất cờ giải phóng tại Dinh Độc Lập - ảnh 1Từ trái sang: CCB Phạm Duy Đô (thứ 2), cựu pháo thủ số 1 xe tăng 390 Ngô Sĩ Nguyên (thứ 4), cựu lái xe tăng 390 Nguyễn Văn Tập (thứ 6) và một số đồng đội trong ngày vui gặp mặt. Ảnh: Kiến Nghĩa
Hôm đó, có dịp trò chuyện với cựu chiến binh (CCB) Phạm Duy Đô, tôi mới hay người lính có dáng người thấp bé ấy trong chiến tranh là một đặc công nước thiện chiến, từng nhiều lần vào sinh ra tử. Ông Đô cho biết, khi nhập ngũ ông cao tới mét bảy, nhưng đến khi có tuổi, do ảnh hưởng của những vết thương nên cơ thể ông co rút xuống trở thành người thấp bé như hiện nay.
Rồi CCB Phạm Duy Đô chia sẻ, ông sinh ra tại vùng sông nước Thái Bình và bơi lội rất giỏi, nên khi nhập ngũ năm 1969 ông được tuyển lựa vào lính đặc công nước. Sau khi huấn luyện được 6 tháng, Phạm Duy Đô đã được đơn vị lựa chọn là một trong sáu người bơi mẫu để các học viên của Trường Lục quân 1 (Sơn Tây, Hà Nội) quan sát, học tập. Năm 1971, khi Chủ tịch Cu Ba Phidel Castro sang thăm Việt Nam, Phạm Duy Đô tiếp tục được lựa chọn trong đội hình tập trận của quân đội ta.
“Ngày ấy, chúng tôi biểu diễn gồm 3 nội dung là bơi qua sông Hồng để đánh vào sân bay Gia Lâm, đánh chiếm nội đô và buộc bộc phá vào chân cầu Long Biên để giả tưởng tình huống phá hủy cầu. Đây là những nội dung mà sau này chúng tôi có dịp áp dụng khi tiến vào giải phóng Sài Gòn”- CCB Phạm Duy Đô cho biết.
Sau cuộc tập trận biểu diễn trên không lâu, Phạm Duy Đô theo đơn vị hành quân vào miền Nam. Tại chiến trường, ông đã trải qua hàng trăm trận đánh và bị thương. “Năm 1972, trong trận chiến với địch tại Biên Hòa, tôi bị đạn găm vào hai bên đùi, rồi bị cây đổ đè vào cột sống khiến tôi bất tỉnh. Đồng đội tưởng tôi hy sinh, khiêng ra bờ suối để đợi đến sáng đem chôn. Không ngờ, đến nửa đêm tôi tỉnh lại, được đưa đi điều trị rồi sau đó lại được tiếp tục tham gia chiến đấu”- CCB Phạm Duy Đô bồi hồi nhớ lại.
Giữa năm 1974, khi cuộc chiến bước vào giai đoạn khốc liệt, đơn vị của Phạm Duy Đô (Đại đội 1, Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 116, Sư đoàn đặc công 305) được lệnh phá cầu xa lộ Đồng Nai, một vị trí trọng yếu để tiến vào Sài Gòn. Một số đồng đội của Phạm Duy Đô được cử đi nghiên cứu thực địa, triển khai nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, khi kế hoạch chuẩn bị được thực thi, đơn vị lại nhận được lệnh của cấp trên dừng việc phá cầu.
“Hồi đó, chúng tôi chưa hiểu sự thay đổi này. Nhưng đến giữa tháng 4/1975, khi nhận lệnh đánh chiếm và giữ bằng được cây cầu trọng yếu này để đại quân vào giải phóng Sài Gòn, chúng tôi mới hiểu mệnh lệnh của cấp trên trước đó”- CCB Phạm Duy Đô cho biết. Rồi ông chia sẻ, ngày 26/4/1975, Đại đội 1 do ông làm đại đội trưởng được lệnh về Sở chỉ huy của tiểu đoàn nhận nhiệm vụ mũi nhọn đánh chiếm cầu Đồng Nai. Chấp hành mệnh lệnh, rạng sáng 27/4, Đại đội 1 chia làm hai mũi áp sát cầu. Lúc này, tàn quân địch đóng đông nghịt tại ngã ba Long Bình. Xe tăng, xe bọc thép đỗ san sát mặt đường. Có thể do hoảng loạn và mệt mỏi vào lúc gần sáng nên nhiều binh lính địch ôm súng ngồi ngủ gật. Lợi dụng tình hình, Đại đội 1 đặc công áp sát trận địa và nổ súng tiến công. Cùng lúc, các đơn vị khác của Trung đoàn đặc công 116 cũng phát động tấn công. Sau một thời gian chiến đấu, quân ta đã chiếm giữ được một đầu cầu Đồng Nai.
Lúc này, trời đã sáng, địch tập trung hỏa lực chiếm lại cầu. Trước tình thế địch đông quân hơn nhiều, trong khi đại quân ta vẫn chưa đến nên Trung đoàn 116 tạm rút khỏi đầu cầu Đồng Nai khoảng nửa cây số, chờ cơ hội đánh chiếm lại cầu.
Phất cờ giải phóng tại Dinh Độc Lập

Người phất cờ giải phóng tại Dinh Độc Lập - ảnh 2Lá cờ giải phóng được đại đội trưởng Phạm Duy Đô phất cao tại Dinh Độc Lập hiện được trưng bày tại Bảo tàng Đặc công
Ngày 29/4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh chiếm lại đầu cầu Đồng Nai và phía nam Tổng kho Long Bình. Sau hai giờ tấn công, quân ta đã chiếm được hai mục tiêu trên. Lúc này, địch bắt đầu tính đến kế hoạch cuối cùng là sẽ phá hủy cầu nếu không ngăn chặn bước tiến của quân ta. Chúng bố trí 4 quả bom tấn, sẵn sàng kích nổ khi không thể giữ được cầu.
Trước tình thế ngặt nghèo, quân ta tìm cách phải phá hủy trạm điện để địch không thể kích nổ bom phá cầu. Đại đội trưởng Phạm Duy Đô và hai chiến sĩ được giao nhiệm vụ này. Họ đã mang theo bộc phá, lặng lẽ bơi sang đầu cầu bên kia mà không để lại động tĩnh. Lên tới bờ, các anh bí mật áp sát trạm điện để gài bộc phá rồi lặng lẽ lùi xa mục tiêu. Bộc phá được kích nổ, trạm điện nổ tung trước sự ngỡ ngàng của quân địch. Chúng đồng loạt nổ súng về phía các chiến sĩ đặc công khiến hai chiến sĩ hy sinh, đại đội trưởng Phạm Duy Đô bơi được về bên kia bờ.
Rạng sáng 30/4, quân ta bắt đầu tập trung đánh chiếm cầu Đồng Nai. Toàn bộ trận địa rung chuyển bởi các loạt đạn nổ chát chúa. Quân địch yếu thế dần, buộc phải rút khỏi cầu. Đang lúc thắng thế, đại đội trưởng Phạm Duy Đô chăm chú quan sát, rồi vui mừng hô lớn: “Xe tăng ta đến rồi”. Tín hiệu bắt liên lạc lập tức bắn lên. Trận địa bỗng im hẳn tiếng súng, chỉ còn nghe tiếng xích xe tăng nghiến trên mặt xa lộ. Đó chính là đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 (Quân đoàn 2) đang rầm rập tiến đến. Trung đoàn đặc công 116 để lại một lực lượng giữ cầu, còn lại tốc chiến cùng xe tăng ta thẳng tiến vào nội đô Sài Gòn.
Trong số đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 năm ấy, hai chiếc xe tăng số hiệu 390 và 843 (Đại đội 4, Tiểu đoàn 1) đã tới Dinh Độc Lập đầu tiên. Và đại đội trưởng Bùi Quang Thận (trưởng xe tăng 843) đã tháo lá cờ trên tháp pháo xe tăng để lên nóc Dinh Độc Lập cắm cờ chiến thắng. Ngay sau đó, đại đội 1 đặc công của trung úy Phạm Duy Đô cũng vào đến đến nơi. “Vừa chạy vào Dinh, tôi vừa lấy lá cờ trong túi ra. Bất chợt, tôi nhìn thấy một chiếc cán cờ nên đã cầm theo và gài cờ lên đó. Chạy lên tầng hai Dinh Độc Lập, tôi ra ban công vẫy cờ để báo hiệu cho quân ta tiếp tục tiến vào”- CCB Phạm Duy Đô cho biết.
CCB Phạm Duy Đô chia sẻ thêm, trong chiến đấu, do phải phối hợp giữa các đơn vị khác nhau, nên mỗi đơn vị thường được cấp một số lá cờ để làm tín hiệu nhận ra nhau cũng như báo hiệu an toàn. Lá cờ này khi gấp lại rất gọn, dễ mang trong quá trình chiến đấu và hành quân. “Sau khi phất cờ xong, tôi vào trong để cùng phối hợp bắt nội các của tổng thống Dương Văn Minh”- CCB Phạm Duy Đô cho biết.
Sau khi miền Nam giải phóng, đại đội trưởng Phạm Duy Đô về làm quân quản ở Thủ Đức rồi được điều về đảm nhiệm công tác huấn luyện chiến sĩ mới tại Quân khu 7. Năm 1983, do sức khỏe yếu (là thương binh bậc 2/4), ông xuất ngũ, về quê hương Thái Bình sinh sống. Gần đây, khi gọi điện hỏi thăm CCB Phạm Duy Đô, tôi được ông tâm sự rằng những năm tháng được tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam luôn là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời ông. “Nhớ lại cuộc gặp với những CCB đã vào Dinh Độc Lập như anh Ngô Sĩ Nguyên, anh Nguyễn Văn Tập... gần đây, tôi như được sống lại những ngày tháng tư lịch sử của 45 năm về trước”- CCB Phạm Duy Đô chia sẻ.
#LTH#

NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC

Thực hiện chủ trương nới lỏng giãn cách xã hội để vừa chủ động phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả, vừa tận dụng thời cơ tái khởi động sản xuất, kinh doanh, nhiều điểm du lịch ở các địa phương an toàn đã chuẩn bị mở cửa trở lại phục vụ du khách. Dự kiến trong dịp nghỉ lễ 30-4, 1-5 sắp tới, du lịch nội địa sẽ tái khởi động ở nhiều địa phương. Điểm nhấn thu hút du khách tham quan, tìm hiểu trong dịp này chính là hệ thống các di tích lịch sử, bảo tàng chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang (CTCM và LLVT).

Hằng năm, vào dịp lễ mừng “Ngày hội non sông” 30-4 và Ngày quốc tế Lao động 1-5, hệ thống di tích, bảo tàng lịch sử CTCM và LLVT luôn là điểm đến hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Sức sống của các di tích, bảo tàng như ngọn lửa cháy mãi, đến dịp được khơi nguồn lại bùng lên mạnh mẽ, tiếp thêm niềm tin, động lực nội sinh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta mài sắc ý chí chiến đấu, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, chung tay xây dựng đất nước phát triển. Năm nay, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các hoạt động mít tinh, kỷ niệm không thể tổ chức với quy mô lớn, nhưng ngành văn hóa, du lịch các đơn vị, địa phương vẫn có nhiều cách làm sáng tạo, tận dụng công nghệ thông minh và truyền thông để thổi bùng sức sống từ các di tích, bảo tàng lịch sử, khơi dậy niềm tự hào to lớn trong đời sống xã hội.
NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC
Các đại biểu dự Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Quân đội lần thứ IX tham quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (tháng 11-2017). Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn
Một trong những niềm hạnh phúc của thế hệ hôm nay là chúng ta vẫn còn được gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều nhân chứng lịch sử. Đó là những Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng LLVT nhân dân, người có công, các cựu chiến binh… Những câu chuyện, ký ức chiến tranh được tái hiện sinh động, chân thực từ người thật, việc thật, tương tác cùng các hình ảnh, hiện vật giúp thế hệ hôm nay được sống cùng lịch sử, tự hào với truyền thống cha ông. Đó cũng chính là những chất liệu sinh động bổ sung, làm phong phú thêm nguồn sử liệu vô giá, tăng thêm sức sống mãnh liệt từ hệ thống công trình lịch sử và di sản văn hóa quốc gia về CTCM và LLVT.
45 năm đã trôi qua kể từ ngày đất nước thống nhất, dấu tích chiến tranh trên các vùng quê cách mạng, trên chiến trường xưa đã được “đổi thịt, thay da”. Những mất mát, hy sinh của các thế hệ đồng bào, chiến sĩ đã được Đảng, Nhà nước ta ghi công, quan tâm tri ân sâu sắc. Dù không có bất cứ tài sản gì có thể bù đắp được xương máu của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ, nhưng chính lòng yêu nước, căm thù giặc, khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đức hy sinh của nhân dân ta là nhân tố tự làm lành vết thương chiến tranh từ mỗi gia đình, dòng họ. Truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ kính yêu và Đảng Cộng sản Việt Nam, đã kết tinh thành giá trị lịch sử, di sản văn hóa quốc gia. Bên cạnh di sản văn hóa tinh thần là lòng yêu nước, lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc của các thế hệ đồng bào, chiến sĩ; hệ thống di sản văn hóa vật thể về CTCM và LLVT hiện diện khắp đất nước chính là những chứng nhân lịch sử, là tài sản vô giá. Tại các địa phương khắp cả nước hiện có hàng trăm bảo tàng, hàng nghìn di tích lịch sử CTCM và LLVT đã được xếp hạng, cùng rất nhiều công trình, di tích đang được trùng tu, phục dựng. Nhiều di tích, hiện vật lịch sử đã trở thành Quốc bảo. Sức sống từ hệ thống di tích, bảo tàng lịch sử CTCM và LLVT là thông điệp kiêu hãnh của niềm tự hào dân tộc, khẳng định vị thế đất nước trên trường quốc tế, lưu truyền giá trị bản sắc dân tộc đến muôn sau…
#LTH#

BẢO VỆ THÀNH QUẢ VĨ ĐẠI 30 - 4 TỪ TRẬN ĐỊA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ...

Chiến thắng 30-4-1975 là thành tựu vĩ đại nhất trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Suốt 45 năm qua, ngày 30-4 hằng năm là Ngày hội non sông, hội tụ hào khí giang sơn, kết tinh bản sắc văn hóa dân tộc.

Bảo vệ thành quả cách mạng 30-4 là cuộc đấu tranh chính nghĩa, làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Trong môi trường hội nhập quốc tế, cần đặc biệt coi trọng củng cố sức mạnh truyền thống từ mỗi gia đình, dòng họ, nơi khởi phát, hội tụ và tiếp biến những khuynh hướng văn hóa, tư tưởng thời đại, với tinh thần mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi gia đình là một pháo đài, mỗi dòng họ là một trận địa…
I - Nghịch lý “chim khách và quạ”
Dân gian có câu chuyện ngụ ngôn rất hay về hai loài chim tượng trưng cho hai cảnh giới khác nhau. Chim khách đến đậu trước sân nhà nọ hót véo von, chủ nhà vui mừng chào đón, đem thóc gạo ra đãi. Quạ thấy thế cũng bắt chước, bay đến đậu ở nhà bên cạnh, vươn cổ kêu “quạ… quạ…”, lập tức bị chủ cầm gạch, đá ném cho suýt mất mạng.
Gặp chim khách, quạ hỏi:
- Tôi làm giống như anh, sao lại chịu kết cục thế này?
Chim khách từ tốn đáp:
- Tiếng hót của tôi đem điềm lành, niềm vui đến cho con người. Còn anh thì sặc mùi chết chóc, ám khí, xui xẻo. Anh không bị người ta giết chết đã là may mắn!
Câu chuyện đơn giản mà ngụ ý sâu xa. Ngẫm để thấy, trong thế giới hiện đại, mọi hành động của tổ chức, cá nhân, rộng hơn là cả quốc gia, dân tộc đều được thực tiễn lịch sử nhận diện khách quan, công bằng. 45 năm qua, vào dịp tháng Tư lịch sử, nhất là những năm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tổ chức đại lễ kỷ niệm ngày đất nước thống nhất, mẹ Tổ quốc lại mở rộng vòng tay đón mừng những đứa con khắp nơi trở về sum họp “Ngày hội non sông”. Đường lối hòa hợp dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân chung tay kiến thiết, xây dựng đất nước đã được Đảng ta thực hiện ngay sau ngày Nam Bắc liền một dải. Từ đó đến nay, Đảng và nhân dân ta luôn luôn coi kiều bào là bộ phận không thể tách rời của dân tộc. Càng ngày, những chủ trương, chính sách của Đảng và các hình thức hợp tác, kết nối của các cấp, các ngành, các địa phương càng tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi để kiều bào gắn kết với quê hương. Hàng triệu kiều bào yêu nước luôn sát cánh bên Đảng và đồng bào, chiến sĩ trong nước, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện có hơn 4,5 triệu kiều bào sinh sống và làm việc tại 110 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy, lượng kiều hối về Việt Nam liên tục tăng cao hằng năm. Năm 2016, kiều hối đạt gần 11,9 tỷ USD, đến năm 2019 đã lên đến 16,7 tỷ USD. Liên tục 3 năm qua, Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới.
Bảo vệ thành quả vĩ đại 30-4 từ trận địa gia đình, dòng họ
Nhân dân Sài Gòn tập trung tại cổng Dinh Độc Lập đón bộ đội vào giải phóng thành phố. Ảnh tư liệu/theo hanoimoi.com.vn.
Dẫn một vài số liệu như vậy để thấy, đại đoàn kết là xu thế tất yếu, thúc đẩy phát triển đất nước trong môi trường hội nhập. Đại dịch Covid-19 trên phạm vi toàn cầu trở thành một “phép thử” của thời đại. Càng hoạn nạn, khó khăn, thực tiễn càng chứng minh, Đảng và nhân dân Việt Nam là một khối đoàn kết không thể tách rời. Tính ưu việt của một chế độ xã hội không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, sức mạnh quân sự, tốc độ phát triển của văn minh công nghiệp…, mà phụ thuộc vào chủ trương, vị thế, uy tín của Đảng cầm quyền. Trở thành quốc gia được chọn là hình mẫu của thế giới về hiệu quả phòng, chống đại dịch Covid-19, chúng ta đã chứng minh cho thế giới thấy rõ tính ưu việt, bản chất nhân văn của chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mọi đường lối, chủ trương, sách lược, giải pháp lãnh đạo đều hướng đến chăm lo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, kiều bào. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Hướng về kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2020), dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, song qua truyền thông và mạng xã hội, nhiều tổ chức, cá nhân kiều bào ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đã hướng về quê hương bằng những chương trình hành động thiết thực. Bạn bè quốc tế cũng dành sự ngưỡng mộ, tình cảm tốt đẹp nhất cho Đảng, Chính phủ, quân và dân Việt Nam. Đó là những thanh âm, sắc màu thể hiện cảnh giới của giá trị nhân văn, tinh thần đoàn kết, góp phần nâng cao niềm tin, vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Đáng tiếc là trong bản hùng ca đại đoàn kết, đâu đó vẫn có những tiếng gào lạc phách, lạc nhịp. Một số tổ chức dạng hội, nhóm người Việt Nam ở nước ngoài lại tiếp tục “bổn cũ soạn lại”. Họ tận dụng truyền thông hải ngoại và mạng xã hội, thực hiện các hoạt động kích động hận thù với những cái gọi là “Ngày quốc hận”, “Tháng tư đen”, “Hội luận về 30-4”, “Chuyển lửa đấu tranh về quốc nội” v.v.. Nội dung của những hoạt động này vẫn chỉ xoay quanh các luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc về Chiến thắng 30-4 của cách mạng Việt Nam. Bằng các hình thức trao đổi, phỏng vấn, hội đàm, hội luận… họ lợi dụng danh nghĩa “nhà nghiên cứu”, “giáo sư”, “tiến sĩ”, “học giả”… ở hải ngoại, kết nối với một số phần tử cơ hội, bất mãn trong nước để tiếp tục rêu rao phủ nhận, xuyên tạc sự thật lịch sử, cho rằng chiến thắng 30-4-1975 thực chất là cuộc “nội chiến”, là “huynh đệ tương tàn”, rằng đất nước hiện thời đang “lâm nguy” ...
Dư luận kiều bào yêu nước rất bất bình trước việc một bộ phận người Việt Nam tại bắc California (Hoa Kỳ) tổ chức cái gọi là “Ủy ban hành động chống cộng sản” công khai thực hiện các hoạt động xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam. Họ nêu khẩu hiệu “Quyền và lực của chúng ta: Lá phiếu, kiến nghị, biểu dương, biểu tình”, kêu gọi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện phương châm “Đơn giản, khả tín, khắp nơi, đồng bộ”, thực hiện “4 không” (không hòa hợp, hòa giải với Cộng sản Việt Nam; không du lịch Việt Nam; không gửi tiền, quà về Việt Nam; không mua thực phẩm, hàng hóa từ Việt Nam). Dù họ cố tình lên gân kiểu "đao to búa lớn", nhưng cái gọi là “Ủy ban hành động chống cộng sản” thực chất chỉ lèo tèo vài nhóm người. Ngay cả thành phần chủ chốt của tổ chức này, khi đăng đàn tuyên truyền xuyên tạc cũng phải thừa nhận rằng, các hội, đoàn ở đây không tìm được “mẫu số chung” trong hoạt động chống cộng sản. Không tìm được “mẫu số chung” là bởi, đại đa số cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ và các quốc gia, vùng lãnh thổ đã có nhận thức đúng đắn về tính tất yếu của hòa hợp dân tộc theo đường lối của Đảng và nhân dân ta. Câu chuyện của ông Tạ Hoa Kiên, 73 tuổi, Việt kiều quốc tịch Mỹ mắc Covid-19 được các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan chức năng và Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP Hồ Chí Minh quan tâm, điều trị miễn phí khỏi bệnh là một ví dụ thời sự. Trở về Mỹ, ông Tạ Hoa Kiên đã trả lời phỏng vấn truyền thông sở tại ngay tại sân bay. Những phát biểu cảm kích, chân thành của ông về những ngày được các thầy thuốc ở đất mẹ Việt Nam chăm sóc, điều trị, giúp ông “trở về từ cõi chết”, đã giúp cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thấy rõ hơn một góc nhìn cận cảnh về sự quan tâm của Đảng và tình nghĩa của đồng bào dành cho những người con xa xứ.
Những dẫn chứng như vậy có rất nhiều trên truyền thông và mạng xã hội thời phòng, chống dịch Covid-19. Nó như những loài hoa thơm bung nụ khoe sắc lấn át cỏ dại trong vườn hoa xuân. Nhằm đập lại những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ đất nước, kích động hận thù của những phần tử, tổ chức phản động ở hải ngoại, rất nhiều tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài đã thành lập những kênh truyền thông, tận dụng các mạng xã hội thực hiện nhiều sản phẩm truyền thông phản ánh trung thực, sinh động tình hình trong nước. Thông qua các chuyện mắt thấy tai nghe của những người trở về quê hương sau nhiều năm xa cách, họ đã mang đến cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài những bức tranh toàn cảnh về đất nước, con người Việt Nam sau 45 năm thống nhất. Đó là hiện thực hiển nhiên, không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Với chúng ta, thế hệ có sứ mệnh phải bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng vĩ đại 30-4 của cha ông, chúng ta trân quý những tiếng nói, việc làm mang tính xây dựng. Đó như là tiếng hót của chim khách mang điềm lành, niềm vui đến cho gia chủ. Chúng ta quyết không bao giờ dung nạp mưu đồ bẩn thỉu của loài quạ đen tanh hôi…
#HHĐ#

ĐỪNG TẠO CỚ CHO "TU HÚ ĐẺ NHỜ"

Tu hú là loài xảo quyệt nhất trong thế giới tự nhiên. Đặc tính của loài chim này là không bao giờ làm tổ, đẻ trứng, nuôi con. Vào mùa sinh sản, chúng tìm tổ của các loài chim khác để “đẻ nhờ”. Tu hú con vừa tách vỏ trứng nở ra, lập tức gồng mình đẩy những quả trứng khác rơi xuống đất để “độc chiếm giang sơn”.

Câu thành ngữ “Nuôi con tu hú” của ông bà ta nhằm nhắc nhở con cháu phải luôn luôn cảnh giác với loại người “tu hú”, từ đời sống gia đình, xã hội cho đến vận mệnh của cả quốc gia, dân tộc…
Đối tượng lợi dụng của loài “tu hú”
Các nhà sinh vật học đã chứng minh, loài tu hú rất tinh ranh và chuyên nghiệp trong “sự nghiệp” đẻ nhờ. Thế giới tự nhiên có hàng nghìn loài chim, nhưng không phải tổ chim nào tu hú cũng đến đẻ trứng. Chúng thường chọn tổ của những loài chim thường mất cảnh giác và có kích thước, màu sắc tương đồng. Loài bị tu hú lợi dụng nhiều nhất là chim cưỡng. Trong giới sinh vật cảnh, chim cưỡng rất được ưa chuộng bởi hót hay, có thể luyện cho chúng nói được tiếng người. Thông minh, giá trị là thế nhưng trong đời sống tự nhiên, chim cưỡng lại thiếu sự nhạy cảm cần thiết để phân biệt thật-giả, trắng-đen. Bị tu hú lợi dụng từ đời này qua đời khác nhưng không tỉnh ngộ. Chim cưỡng ngày càng hiếm, một phần do bị kẻ thù triệt mất nòi giống mà không hề hay biết…
Ngẫm chuyện tu hú để thấy rõ hơn đời sống xã hội và quan hệ quốc tế trong môi trường đổi mới, hội nhập, thời cơ đan xen nguy cơ, cơ hội đi kèm thách thức. Việc nhận diện, phân định đối tượng-đối tác không hề là chuyện đơn giản trong các mối quan hệ của thời đại số. Trong suốt 45 năm qua, mỗi bước phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là một giai đoạn trải qua thử thách cam go, phức tạp. Vị thế đất nước trên trường quốc tế càng cao thì sự cay cú, chống phá của các thế lực thù địch, phản động càng tinh vi, phức tạp. Văn hóa, tư tưởng là lĩnh vực được các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá mạnh mẽ nhất. Chúng triệt để lợi dụng tiện ích của công nghệ thông tin, truyền thông, mạng xã hội để tác động, lôi kéo các đối tượng cực đoan, suy thoái chính trị trong nước, ngay trong nội bộ đảng nhằm phục vụ mưu đồ theo cách “tu hú đẻ nhờ”.
Giới nghệ sĩ điện ảnh, sân khấu ở TP Hồ Chí Minh đến nay vẫn hay nhắc đến bài học đắt giá của diễn viên ĐD. 20 năm trước, ĐD được coi là một “át chủ bài” của điện ảnh phía Nam, đảm nhiệm vai chính trong gần 40 phim điện ảnh, trong đó có nhiều tác phẩm về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang có giá trị cao về nội dung, nghệ thuật. Tài năng và nổi tiếng, con đường nghệ thuật của ĐD đang rộng mở thì bị đổ sông đổ biển, khi được điện ảnh Mỹ săn đón, mời sang đóng phim và tham gia vai chính trong một số phim nhưng thực chất, đó là một kiểu “tu hú đẻ nhờ” tinh vi. Phim ĐD đóng có nội dung xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ cuộc chiến tranh chính nghĩa chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, làm sai lệch bản chất, méo mó hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.
Những người nổi tiếng trong giới nghệ sĩ, trí thức, cán bộ bị kỷ luật, sa thải có tư tưởng bất mãn với chế độ… là những đối tượng luôn được các thế lực thù địch, phản động săn đón, lợi dụng. Ai cũng biết, tiếng nói và sự xuất hiện của họ trên truyền thông luôn thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng. Không ít người vì nhẹ dạ cả tin, vì non kém về nhận thức và bản lĩnh chính trị, vì lóa mắt trước thứ “bánh vẽ” danh tiếng nên đã dễ dàng sa vào cái bẫy giăng sẵn hết sức tinh vi của các thế lực thù địch. Có không ít bài học nhãn tiền từ những người đi trước, nhưng một số người hiện nay vẫn chưa chịu thức tỉnh. Thời gian qua, dư luận bày tỏ thái độ bức xúc trước việc, một số trí thức, học giả, nhà nghiên cứu đăng đàn phát biểu những nội dung đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Dưới danh nghĩa hội thảo, tọa đàm khoa học do các hội, đoàn, tổ chức phi chính phủ thực hiện, họ cố tình đánh tráo khái niệm, đòi công nhận chính quyền tay sai Sài Gòn trước năm 1975 là một “chính thể quốc gia”. Họ lập luận, lịch sử độc lập với chính trị; nhà sử học chỉ quan tâm đến lịch sử!?! Thực chất, đây là kiểu tư duy ngụy khoa học, là cái cớ cho “tu hú đẻ nhờ”, tạo cơ hội để các thế lực thù địch xuyên tạc, rêu rao luận điệu phá hoại, thủ tiêu thành quả vĩ đại trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Đảng và nhân dân ta.
II - Đừng tạo cớ cho “tu hú đẻ nhờ”
Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào thành phố. Ảnh tư liệu/TTXVN.
Mới đây, cái gọi là tổ chức “Ủy ban hành động chống cộng sản” của một số phần tử người Việt Nam tại Mỹ đã sử dụng những em bé đang tuổi học sinh, cho mặc quân phục của quân lực Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975 để trả lời phỏng vấn. Thực chất, đó là một vài người Việt trẻ tuổi sống xa Tổ quốc bị các phần tử thù địch nhồi nhét tư tưởng hận thù, học thuộc các nội dung do người lớn chuẩn bị sẵn để kích động, xuyên tạc, chống phá đất nước. Vậy là, bên cạnh những thành phần truyền thống, chúng đã và đang hướng đến đầu độc thế hệ tương lai của đất nước và kiều bào. Đây là thủ đoạn hết sức nham hiểm, bởi tâm hồn trẻ em như trang giấy trắng. Các cháu sống xa Tổ quốc, biết nói tiếng Việt nhưng lại bị đầu độc bởi tư tưởng thù địch, chống phá đất nước, sẽ để lại những hệ lụy tiêu cực về sau...
Thành trì vững chắc ngăn chặn thủ đoạn “đẻ nhờ”
Được “trải thảm đỏ” săn đón, nhưng khi hết giá trị lợi dụng thì những “ngôi sao” trong giới nghệ sĩ, trí thức trót “nhúng chàm” có được cuộc sống sung túc, giàu sang nơi xứ người không? Hoàn toàn không! Kết cục của diễn viên ĐD là một dẫn chứng đau buồn. Sau khi đóng máy các bộ phim xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam, những người từng mời ĐD đóng phim cũng… “đóng cửa” luôn với anh ta. ĐD sống cơ cực trên đất khách, phải nhờ đến sự giúp đỡ của những người thân, rồi qua đời năm 2011 vì bệnh hiểm nghèo; tro cốt được người thân đón về trong lòng Đất mẹ Việt Nam. Đa phần những người quay lưng với Tổ quốc đều có chung cái kết tương tự. Đó thực là những bài học nhãn tiền…
Âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước của các thế lực thù địch, phản động là không giới hạn. Nhưng không phải ai cũng dễ dàng rơi vào bẫy của chúng. Đa số những người nổi tiếng trong giới nghệ sĩ, trí thức, doanh nhân, khoa học… đều nhận thức đầy đủ trách nhiệm nghề nghiệp và bổn phận với Tổ quốc, nhân dân. Cố NSND Thế Anh trong cuộc gặp gỡ cuối cùng với chúng tôi cũng đã đau đáu nhắn gửi đến thế hệ nghệ sĩ hôm nay rằng, miếng phô mai không mất tiền chỉ có trong cái bẫy chuột. Đừng lóa mắt trước những thứ xa xỉ bên ngoài Tổ quốc mình. Thời đóng phim “Nổi gió”, “Mối tình đầu”… tên tuổi Thế Anh nổi như cồn. Người ta cũng trải thảm đỏ mời ông qua Mỹ định cư, hứa hẹn cho nhà cao cửa rộng, trả lương cao ngất ngưởng. Thế Anh từ chối rằng: “Tôi ăn rau muống, cà dầm tương, uống rượu cuốc lủi quen rồi. Rượu tây, nhà lầu, xe hơi… không hợp với tôi”.
Ngay cả những người từng ở bên kia chiến tuyến trước năm 1975, hiện sinh sống tại Mỹ, cũng đã lên tiếng thức tỉnh những cái đầu lệch lạc trong giới kiều bào. Ông Nguyễn Cầm, Việt kiều quốc tịch Mỹ, cựu lính Việt Nam Cộng hòa là một ví dụ. Trở về quê hương sau mấy chục năm xa cách, ông Cầm hết sức ngạc nhiên, cảm động trước sự phát triển nhanh chóng của đất nước và tình cảm nồng ấm của đồng bào mình. Trở lại Mỹ, ông đăng đàn trả lời một kênh truyền thông hải ngoại, thẳng thắn bày tỏ thái độ phê phán việc một bộ phận người Việt Nam ở Mỹ tham gia các nhóm, hội chống phá, xuyên tạc sự thật tình hình đất nước. “Về Việt Nam tôi mới thấy, bên đó (Mỹ), bọn nó toàn bịa đặt vô căn cứ, nói tầm bậy tầm bạ. Tôi về, đi nhiều nơi, đâu đâu cũng thấy đất nước phát triển, yên bình”, ông Cầm nói.
Trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch Covid-19 và chống hạn hán, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đang diễn ra quyết liệt, công chúng cả nước dành tình cảm và sự mến mộ đối với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng. Dù tuổi đời còn trẻ nhưng hành động thiện nguyện, sát cánh cùng các cấp, các ngành phòng, chống dịch, giúp đỡ dân nghèo bằng những việc làm thiết thực, cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật cổ vũ nhân dân, đã cho thấy tinh thần yêu nước đáng trân quý trong trái tim nghệ sĩ. Hành động nhân văn từ những người nổi tiếng có sức cộng hưởng, lan tỏa lớn trong cộng đồng, tạo thêm động lực sát cánh cùng Đảng, Nhà nước chăm lo tốt nhất cho dân, đồng lòng chiến thắng đại dịch, vượt qua khó khăn, thách thức…
Với tinh thần lấy xây để chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, sự lan tỏa những suy nghĩ, hành động, việc làm nhân ái của những trái tim yêu nước chính là cách để chúng ta xây dựng thành trì tư tưởng vững chắc; triệt tiêu cơ hội "đẻ nhờ” của loài "tu hú"…
#HHĐ#

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

CẢNH GIÁC TRƯỚC CHIÊU TRÒ TUNG HÔ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG

QĐND - Thời gian này, đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, khó lường, là mối nguy hại ảnh hưởng đến các mặt đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Thay vì chung tay phòng, chống dịch bệnh, nhiều tài khoản ở các trang mạng xã hội, một số website của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đăng tải, chia sẻ dưới nhiều hình thức những thông tin xấu độc, bịa đặt về công tác nhân sự (CTNS) đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XIII của Đảng.
Những phần tử này đã dựng chuyện về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố, Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XIII, "bố trí, quy hoạch" cán bộ vào những chức danh lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ... Họ bịa đặt trắng trợn, tung hỏa mù, gây rối không khí và tâm trạng xã hội, kích động tâm lý tiêu cực, gây hoang mang trong dư luận, nhằm làm tổn hại đến niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ XHCN, làm suy giảm uy tín của một số cán bộ lãnh đạo cấp cao, tác động đến vai trò giám sát của quần chúng đối với CTNS đại hội đảng.
Phải khẳng định, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Việt Nam không lạ gì những chiêu trò chống phá trước thềm đại hội đảng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Dù thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt tới đâu, ngụy trang kiểu gì cũng không đủ để tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Bởi mỗi người dân Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống yêu nước, một lòng kiên trung theo Đảng, theo cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào công tác lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy các cấp.
Nhân dân tin Đảng, tin cán bộ của Đảng, bởi quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước, dù gặp nhiều khó khăn, thử thách trong chiến tranh cũng như thời bình, Đảng luôn tiếp thu nghiêm túc, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, một lòng một dạ gắn bó máu thịt với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh. Nhiều cán bộ, đảng viên đã anh dũng chiến đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định trong Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2020): “Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân”.
Cảnh giác với chiêu trò tung hô nhảm nhí về nhân sự trước thềm đại hội đảng
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn
Qua khảo sát, tìm hiểu về công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng cấp cơ sở ở các địa phương: Tuyên Quang, Phú Thọ, Hải Dương, Điện Biên, Cao Bằng, Hậu Giang, Đồng Nai... cho thấy: Đa số người dân vững tin rằng, CTNS đại hội đảng bộ cơ sở đúng với ý chí, nguyện vọng của dân, nên rất phấn khởi, tự hào. Qua chuyến khảo sát đó, chúng tôi còn được biết thêm những hành động, việc làm tuy không lớn, nhưng hết sức ý nghĩa của quần chúng nhân dân dành cho Đảng và cán bộ của Đảng. Ở đó, nhiều nông dân dù chưa một ngày được đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng nhớ rất rõ tên, tuổi, những cống hiến của các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; nhiều người còn chép lại những sự kiện lịch sử trong 90 năm Đảng lãnh đạo đất nước để làm tài liệu tuyên truyền. Như trường hợp ông Phạm Quốc Đạt, 73 tuổi, ở tổ 3, phường Nông Tiến, TP Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang rất cẩn thận ghi danh sách các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua 12 nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và thành tựu của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới vào cuốn sổ rất dày. Ông Đạt cập nhật liên tục những kết quả nổi bật của đất nước về chính trị, kinh tế-xã hội theo từng tháng để phổ biến cho các thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, đã có thời điểm, một bộ phận nhân dân bị giảm sút niềm tin với Đảng, vì rằng ở một số cấp ủy, việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ vào các chức vụ lãnh đạo vẫn chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân xảy ra ở một số nơi. Biết được những suy tư, trăn trở của dân, lắng nghe dân, để giữ vững niềm tin của dân, Đảng ta đã kịp thời ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng, qua đó siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, xử lý nghiêm khắc các đảng viên vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật theo tinh thần "không có vùng cấm". Chính vì thế, có một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng đã phải chịu hình phạt thích đáng. Cùng với đó, BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong công tác quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. 
Liên quan đến các vấn đề thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội đang ráo riết rêu rao, kích động, tung hô nhảm nhí về CTNS đại hội đảng các cấp và nhân sự Đại hội XIII của Đảng, nhiều người dân ở mọi miền Tổ quốc đã phản hồi về Báo Quân đội nhân dân đề nghị quý báo cần có những bài viết vạch mặt; kiến nghị với Đảng, Nhà nước có những hình thức xử lý thích đáng những kẻ nói xấu, bôi nhọ uy tín của cán bộ lãnh đạo, cơ cấu nhân sự của Đảng một cách bịa đặt, tùy tiện, vô căn cứ. Ông Đỗ Thế Trà, 80 tuổi, ở phường Đội Cấn, TP Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang bức xúc: “Tôi đề nghị Đảng, Nhà nước cần có những giải pháp mạnh về công nghệ thông tin để cho những trang mạng tuyên truyền nhảm nhí về nhân sự đại hội đảng dừng hoạt động”. Cựu chiến binh Đặng Văn Lệch, ở xã Tứ Xuyên (Tứ Kỳ, Hải Dương) cho rằng: “Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chẳng thể làm ảnh hưởng đến công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng, vì thực tiễn đã chứng minh, dù khó khăn, gian khổ, dù các thế lực thù địch, phản động chống phá quyết liệt, Đảng ta vẫn tổ chức thành công 12 kỳ đại hội, sáng suốt lựa chọn được một bộ tham mưu chiến lược tài, trí của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam”. Ông Trần Sỹ Phong, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ, đề xuất: “Các cơ quan báo chí cần tuyên truyền nhiều về những tấm gương cán bộ của Đảng luôn vì dân, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, để những trang mạng phản động có thủ đoạn nham hiểm, thích nhảy vào bàn công việc của người khác tự tiêu tan”.
Với quan điểm đấu tranh kiên quyết, mềm dẻo, linh hoạt, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần đề cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội đang ngày đêm bịa đặt về CTNS đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Công tác đấu tranh theo đúng tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với những cán bộ tạo nguồn cấp ủy, cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt phải thực hiện tốt Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của BCH Trung ương quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, để cán bộ của Đảng thực sự là tấm gương tiêu biểu về “dĩ công vi thượng”, tự miễn dịch với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, được quần chúng nhân dân tin tưởng, yêu mến.
Thời điểm này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung chống lại đại dịch Covid-19 nhưng vẫn không lơ là công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Nhiều đảng bộ (chi bộ) đã tổ chức đại hội thành công, đạt kết quả tốt, các đồng chí trúng cử BCH đảng bộ (chi bộ) đạt số phiếu tín nhiệm cao, tiêu biểu về phẩm chất và năng lực. Các đảng bộ trực thuộc Trung ương đã quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, làm tốt CTNS cấp ủy khóa mới bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển với quyết tâm xây dựng cấp ủy có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đặc biệt, CTNS Đại hội XIII của Đảng đã được BCH Trung ương Đảng khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu, bảo đảm đúng nguyên tắc, quy định.
Đáp lại niềm tin, kỳ vọng của nhân dân với Đảng, tin tưởng rằng các cấp bộ đảng sẽ lựa chọn được đội ngũ cán bộ, cấp ủy “vừa hồng”, “vừa chuyên”, có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang… Những âm mưu, ý đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc về công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XIII của Đảng sẽ không thể làm lung lay được ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên bước đường phát triển, xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN.
Nguồn: QUANG THẮNG

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA TƯ TƯỞNG LEENIN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản… Do đó, tư tưởng của Lênin với cách mạng Việt Nam có giá trị trường tồn.
“Bạn chỉ có thể trở thành một người Cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. V.I.Lênin
1. V.I.Lênin – Lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới – đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Liên Xô, lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, lập nên nhà nước Xô viết. Tư tưởng Lênin là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của nhân loại, vẹn nguyên giá trị thời đại, có ảnh hưởng và tác động to lớn đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội”.
Tư tưởng Lênin về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng kiểu mới đem lại cho Hồ Chí Minh và Đảng ta những nhận thức mới, một sinh khí mới. Từ những chỉ dẫn của Lênin, qua thực tiễn thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Dưới ánh sáng tư tưởng Lênin về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững có nhiều yếu tố, nhưng hàng đầu và xuyên suốt là Đảng phải là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân; phải giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới. Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, nếu không có, cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có chủ nghĩa Lênin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất.
Xây dựng Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền, Lênin nhấn mạnh, phải quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sạch, tuyệt đối trung thành, luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết. Đó là đội ngũ phải có trí tuệ, bản lĩnh, có phong cách tư duy và làm việc khoa học; phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, hoan nghênh nhân dân phê bình mình và dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng; phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng làm hạt nhân để đoàn kết giai cấp, đoàn kết toàn dân.
Đảng cầm quyền phải tuyệt đối chống chủ nghĩa quan liêu. Bởi, khi nắm được chính quyền, những người cộng sản nếu không cảnh giác, tự giáo dục, rèn luyện, dễ trở thành quan liêu. Chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các Đảng Cộng sản cầm quyền đến chỗ đánh mất chính quyền, đi vào con đường tiêu vong. Để chống bệnh quan liêu mệnh lệnh thì phải gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ Lênin là một tấm gương sáng không chỉ ở thiên tài trí tuệ, mà là người coi khinh sự xa hoa, có tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị… Lênin là người thầy đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp thế giới, chẳng những bằng lý luận cách mạng, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất.
2. Hơn 90 năm qua, Đảng ta luôn trung thành với tinh thần, giá trị tư tưởng Lênin trong xây dựng Đảng. Đảng ta khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản. Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Đảng ta xứng đáng là một đảng đạo đức, văn minh; một đảng chân chính cách mạng, đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Tư tưởng Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội rọi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Trước hết, phải khẳng định Lênin đã mở ra một bước ngoặt trong lịch sử đau khổ của các dân tộc bị áp bức, tượng trưng cho một tương lai mới xán lạn. Chủ nghĩa Lênin đã chỉ ra cho Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Chính Lênin đã chỉ ra rằng, những người cộng sản phương Đông, trong khi dựa vào lý luận chung và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản, phải thích ứng với những điều kiện riêng biệt mà các nước châu Âu không có, vừa phải học cách vận dụng được lý luận và thực tiễn ấy vào nơi mà quần chúng chủ yếu là nông dân, nơi cần phải xác định sự cần thiết không phải là đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, mà là đấu tranh chống tàn tích phong kiến.
Nhờ vận dụng một cách sáng tạo lời dạy của Lênin cho phù hợp với thực tế, cách mạng Việt Nam đã tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng, trên cơ sở lấy công nông làm gốc, nền tảng, thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc; đã thực hiện tốt khẩu hiệu của Lênin “giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.
Ngọn đuốc lý luận Lênin soi sáng con đường cứu nước Việt Nam, đó là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới; đã phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với việc xác định đặc điểm lớn nhất trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa tiến trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn của cách mạng Việt Nam có sự kế tục một cách mật thiết, đan xen, đồng thời, mặt này trong mặt kia trong cùng một quá trình vận động các mặt kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Chủ nghĩa Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân giữ nguyên giá trị thời đại, ảnh hưởng mạnh mẽ, tích cực đối với cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân nào. Vai trò của Đảng là tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn trùng thử thách. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và những thành tựu to lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng phải khẳng định rằng sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân đã làm nên những thắng lợi lịch sử.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng, dũng cảm phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế như ngày nay. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Ngay trong trận chiến chống “giặc” Covid-19 hôm nay, những kết quả đạt được là nhờ sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân đối với sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, quyết liệt của Đảng và Chính phủ.
Sau gần 35 đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó có nhiều nhân tố, nhưng theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần nhấn mạnh rằng trước hết là nhờ vũ khí không gì thay thế được: Tư tưởng Lênin.


Nhận diện để chống xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh dưới góc nhìn văn học


Xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh luôn là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, để thực hiện điều đó, chúng sử dụng nhiều hình thức, biện pháp; trong đó, dùng văn học, nghệ thuật là một thủ đoạn nguy hiểm. Vì thế, nhận diện để chống mưu đồ của các thế lực thù địch dưới góc nhìn văn học là việc làm vừa cấp thiết, vừa lâu dài.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho hoạt động sáng tạo của các thế hệ văn nghệ sĩ, ở mọi loại hình nghệ thuật. Chỉ tính riêng văn học, mảng văn thơ viết về Bác đã hình thành một dòng chảy lớn, với các tác giả Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, Minh Huệ, Viễn Phương, Trần Đăng Khoa,… trong thơ; Sơn Tùng, Hồ Phương, Hoàng Quảng Uyên, Nguyễn Thế Quang,… trong văn xuôi; Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Nhị, Hà Minh Đức, Phong Lê, Phan Ngọc, Lê Xuân Đức, Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Thanh Tú,… trong nghiên cứu, phê bình. Những năm gần đây, tiếp nối mạch cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Búp sen xanh (1981) và các tác phẩm khác viết về Bác của Sơn Tùng, một số tiểu thuyết, như: Cha và con (2007) của Hồ Phương viết về thời niên thiếu của Bác; Khúc hát những dòng sông (2013) của Nguyễn Thế Quang khắc họa những năm cuối đời của bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Bác Hồ; bộ ba tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó (2010), Giải phóng (2013) và Trông vời cố quốc (2017) của Hoàng Quảng Uyên tái hiện cuộc đời của Bác từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến những ngày Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến kéo dài chín năm đã làm sáng tỏ thêm chân dung vĩ đại Hồ Chí Minh. Đồng thời cho thấy, lòng kính yêu sâu sắc, niềm ngưỡng mộ không bao giờ vơi cạn của các nhà văn Việt Nam đối với Bác. Việc nghiên cứu, tìm hiểu, ca ngợi, tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của Bác vừa là niềm say mê tự nguyện, vừa là bổn phận thiêng liêng của không ít người cầm bút xưa nay.
Bác Hồ nói chuyện với văn nghệ sĩ. Ảnh: Tư liệu

Hình tượng Hồ Chí Minh đã trở thành một đề tài có sức hấp dẫn lớn, giữ vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam hiện đại. Trên thực tế, không chỉ các nhà thơ Việt Nam, mà còn có không ít nhà thơ trên thế giới viết về Người, như Madeleine Riffaud (Pháp), Ewan MacColl (Anh), Ernst Schumacher (Đức), Pavel Antokolsky (Nga), Georgi Veselinov (Bulgaria), Lisandro Otero (Cuba), Rene Depestre (Haiti), v.v. Nhà thơ Cuba Felix Pita Rodriguez khẳng định, bằng nhan đề một bài thơ của mình, Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ.
Những thập niên gần đây, một trong những mũi nhọn chống phá hàng đầu để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là tập trung xuyên tạc, phủ nhận hình tượng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, sở dĩ chế độ cộng sản ở Việt Nam còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ nương tựa vào cái bóng của “huyền thoại Hồ Chí Minh”; do đó, muốn chế độ ở Việt Nam sụp đổ thì một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải xóa bỏ được “thần tượng” này. Từ hải ngoại, chúng lan truyền các thông tin, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Một số đối tượng là nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà văn ở trong nước và nước ngoài có quan điểm sai trái, lệch lạc cũng có những ấn phẩm mang hình thức văn học phụ họa, tiếp tay rất tích cực.
Các ấn phẩm, tài liệu mang yếu tố xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh - xuất hiện trong khoảng 30 năm qua - về mặt thể loại tồn tại cả ở hình thức hư cấu (truyện ngắn, tiểu thuyết) và phi hư cấu (hồi ký, nghiên cứu, phê bình). Có thể kể đến: Lê Hữu Mục với Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký” (nghiên cứu, 1990), Trần Huy Quang với Linh nghiệm (truyện ngắn, 1992), Bùi Tín với Mặt thật (hồi ký, 1994), Vũ Thư Hiên với Đêm giữa ban ngày (hồi ký, 1997), Minh Võ với Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp (nghiên cứu, 2003), Dương Thu Hương với Đỉnh cao chói lọi (tiểu thuyết, 2009), v.v. Năm 2009, bộ phim tài liệu Sự thật về Hồ Chí Minh (được chủ trương bởi “Phong trào quốc dân đòi trả tên Sài Gòn”) ra đời tại cộng đồng người Việt ở Mỹ cũng là một sản phẩm “tiêu biểu” của chiến dịch “xóa thần tượng Hồ Chí Minh”. Nhìn chung, các ấn phẩm, tài liệu trên đều ít nhiều chứa đựng thông tin sai lạc về Hồ Chí Minh, được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
Trước hếtxuyên tạc về đời tư. Nhiều năm qua, đời tư của Hồ Chí Minh là khía cạnh các thế lực thù địch tập trung nhiều nhất sự xuyên tạc, bôi nhọ. Một số ấn phẩm văn học, tài liệu nghiên cứu ở hải ngoại cho rằng, Hồ Chí Minh không phải đã hy sinh cuộc đời riêng để tận hiến cho dân tộc mà từng có vợ, con và nhiều người tình. Qua đó, họ kết tội Hồ Chí Minh vô đạo đức vì không dám thừa nhận và nhẫn tâm bỏ mặc vợ con mình. Đó là những câu chuyện về quan hệ đời tư của Hồ Chí Minh được họ đề cập trong các hồi ký, bài báo, tiểu thuyết, tài liệu nghiên cứu. Một điểm chung là tất cả các thông tin này đều không có căn cứ rõ ràng, không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào để khẳng định đó là sự thật. Những lời kể chỉ là được “nghe nói lại” từ lời người khác; cả người nghe và người nói đều không phải nhân chứng, không phải người trong cuộc.
Thứ haixuyên tạc về nhân cách. Lâu nay các thế lực thù địch luôn xuyên tạc nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh, tạo dựng lên một chân dung Hồ Chí Minh khác hẳn với con người thực. Chúng bịa đặt ra những câu chuyện trong đó Hồ Chí Minh được miêu tả như một con người tầm thường, bản năng và sống xa hoa hưởng lạc chứ không hề giản dị thanh bạch như “cộng sản tuyên truyền”. Những luận điệu trên chủ yếu được đưa ra từ những ấn phẩm xuất bản ở hải ngoại của một số kẻ chống cộng điên cuồng, như: Hoàng Quốc Kỳ, Nguyễn Thuyên, Việt Thường,… và được Minh Võ tập hợp, giới thiệu khái quát trong cuốn sách Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp, kèm theo những bình luận, nhận định hết sức cực đoan của chính Minh Võ. Ngoài ra, những chi tiết mang tính dung tục nhằm hạ thấp nhân cách Hồ Chí Minh còn xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết của Dương Thu Hương như một sự phụ họa ráo riết cho những ngụy ngôn của thế lực thù địch. Cũng như sự xuyên tạc về đời tư, những thông tin xuyên tạc về nhân cách trên đều không có bằng chứng cụ thể; nhiều thông tin trong đó chỉ mang tính vụn vặt, tiểu tiết, hẹp hòi, không đáng dùng làm căn cứ đánh giá con người Hồ Chí Minh với tầm vóc một vĩ nhân, một nhân vật quốc tế.
Thứ baphủ nhận quyền tác giả và xuyên tạc về tác phẩm. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Lê Hữu Mục (nguyên giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn) “chứng minh” người viết cuốn Ngục trung nhật ký là “già Lý” (một người Hán đã ở trong tù cùng với Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông), Hồ Chí Minh lấy tập thơ đó làm của mình. Những lý lẽ của Lê Hữu Mục mang tính chủ quan, áp đặt, suy diễn. Vì thế, năm 1993 đã bị học giả Phan Ngọc phản bác bằng những lập luận sắc sảo trong bài viết Câu chuyện tác giả “Ngục trung nhật ký”, và cuối năm 2019, lại bị bài viết của Phan Khả Minh (cùng tên với bài của Phan Ngọc) in trên Tạp chí Hồn Việt vạch trần thêm nhiều chỗ sai trái.
Thứ tư, phủ nhận tư tưởng yêu nước, dân tộc của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Người vừa là người yêu nước vừa là người cộng sản, vừa hy sinh vì dân tộc Việt Nam vừa nêu cao tinh thần quốc tế vô sản. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người đã nói lên điều đó. Nghị quyết về việc kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh của Đại hội đồng UNESCO tại Paris năm 1987 cũng khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”1. Nhưng, chối bỏ sự thật lịch sử, các thế lực thù địch đã cố tình phủ nhận điều này. Chúng cho rằng, Hồ Chí Minh không hề yêu nước thương dân mà suốt đời chỉ tôn thờ chủ nghĩa cộng sản quốc tế, làm tay sai cho Trung Quốc, Liên Xô, từ đó kết tội Hồ Chí Minh “bán nước”. Đây là quan điểm xuyên suốt của Minh Võ trong cuốn Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp; ông ta tán dương những tiếng nói cùng quan điểm (Tưởng Vĩnh Kính, Nguyễn Thuyên) và bài xích những quan điểm không đồng thuận với mình (Jean Lacouture, David Halberstam). Bên cạnh đó, Minh Võ còn đưa ra những nhận định phi lý, bất chấp thực tế khách quan.
Thứ nămphủ nhận sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nền móng chế độ mới của Hồ Chí Minh. Công lao trời biển của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với đất nước ta không chỉ là giành độc lập, tự do cho dân tộc, chấm dứt gần một trăm năm chế độ thuộc địa thực dân và hàng nghìn năm chế độ quân chủ phong kiến mà còn thiết lập nên nền móng cơ bản của một chế độ mới, xây dựng nền cộng hòa dân chủ với những bước đi từ không đến có ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề. Đó là sự thật không thể phủ nhận. Vậy mà, trong Đỉnh cao chói lọi (cuốn tiểu thuyết có nhân vật chính là “Chủ tịch nước” - một hình ảnh mô phỏng và xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh), Dương Thu Hương đã triệt để phủ nhận chế độ hiện tại ở Việt Nam, coi đó là một xã hội hạ đẳng, thụt lùi và quy tất cả trách nhiệm vào Hồ Chí Minh - người khai sinh chế độ. Phủ nhận công lao của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kiến quốc, Dương Thu Hương phủ nhận cả thành quả của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến do Đảng ta và Hồ Chí Minh lãnh đạo. Cái nhìn đen tối của nhà văn này không chỉ cho thấy sự cực đoan, phiến diện trong tư duy và nhận thức, mà còn bộc lộ cả sự bạc bẽo, vô ơn. Tương tự, truyện ngắn Linh nghiệm của Trần Huy Quang lại mô phỏng thời khắc người thanh niên Nguyễn Ái Quốc gặp chủ nghĩa Lênin với giọng điệu châm biếm, giễu nhại. Bằng lối viết ẩn dụ, truyện ngắn này phụ họa cho luận điệu của Nguyễn Thuyên - Minh Võ, rằng Hồ Chí Minh đã “chạy theo một chủ nghĩa ngoại lai để đem tai họa về cho dân tộc”2; đồng thời, xuyên tạc nhân cách lãnh tụ khi ám chỉ Hồ Chí Minh đã lợi dụng quần chúng nhân dân để đạt được mục đích của đời mình.
Như trên đã trình bày, nhiều năm qua, các tác phẩm văn học về đề tài Hồ Chí Minh chủ yếu là ca ngợi, tôn vinh hình tượng và di sản của Bác. Có rất ít bài viết trực tiếp đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc về Người. Trong khi đó, các thế lực thù địch có chủ trương, mục đích rõ ràng và ngày càng trắng trợn hơn trong chiến dịch “xóa thần tượng”, sử dụng nhiều trang mạng xã hội để chống phá quyết liệt. Bởi vậy, nhận diện đúng để đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh (trong văn học nói riêng, trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nói chung) lúc này là cấp thiết. Song hiện nay, nhiều người cầm bút có tâm lý tránh né, ngại đấu tranh, ngại va chạm; nhiều tờ báo cũng e ngại việc tạo diễn đàn tranh luận những vấn đề chính trị. Không ít các văn nghệ sĩ chỉ có thiên hướng sáng tác về những vấn đề muôn thuở của con người, không muốn đi vào lĩnh vực chính sự. Giới trẻ (trong đó có các cây bút trẻ) một số ít quan tâm đến chính trị, thiếu hiểu biết về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và cuộc đời của các lãnh tụ. Một số người muốn phản biện, đấu tranh lại ít có điều kiện tìm kiếm, tiếp cận các ấn phẩm, tài liệu của “phía bên kia” và thiếu trình độ ngoại ngữ để đọc những công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh viết bằng các ngôn ngữ khác.
Để đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, cần nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hệ thống, toàn diện và hiểu biết sâu về cuộc đời cách mạng của Người. Đồng thời, cần nắm vững hệ thống văn bản, quan điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương về văn hóa, văn học nghệ thuật. Cùng với đó, phải có những hiểu biết về văn hóa, văn học, sử học và tri thức về các ngành khoa học xã hội nhân văn khác; kết hợp hài hòa giữa “chống” và “xây”, giữa đấu tranh trực diện và đấu tranh gián tiếp trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Trong lĩnh vực văn học, việc tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ và nhân dân cũng cần tiếp tục được tiến hành với hai hình thức: nghiên cứu và quảng bá sâu rộng các tác phẩm của Hồ Chí Minh; thúc đẩy hoạt động sáng tác về Hồ Chí Minh, làm sáng rõ tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người qua tác phẩm của các văn nghệ sĩ. Bảo vệ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là bảo vệ chân lý và sự thật, do đó, đây là công việc vừa cấp thiết vừa lâu dài.
Trung tá, nhà văn, TS. PHẠM DUY NGHĨA Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội
_________________   
1 - Về Nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 02-12-2019, dangcongsan.vn.
2 - Minh Võ – Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ, 2006, Tập 1, tr. 237.


Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...