Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ TRÊN THẾ GIỚI ẢO

Dường như đã thành hệ thống và quy luật, trước, trong và sau khi đất nước tổ chức các sự kiện chính trị quan trọng, như: Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, ban hành các luật..., các phần tử phản động và các thế lực thù địch thường đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Bằng các thủ đoạn từ xuyên tạc, bẻ cong ý nghĩa, nội dung đến kích động, lôi kéo tham gia biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước trong nhân dân.

Mới đây, trong cùng một ngày (26-11-2019), Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Phạm Văn Điệp, sinh năm 1965, trú tại phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa và Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu cũng xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Chí Vững, 38 tuổi, ở ấp Lung Chim, xã Định Thành, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu cùng về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” theo quy định tại điểm a và b, khoản 1, Điều 117, Bộ luật Hình sự 2015.
Đây mới chỉ là 2 trong số rất nhiều vụ các đối tượng thù địch, phản động lợi dụng dân chủ, chống phá Đảng và Nhà nước được đưa ra ánh sáng và chịu chế tài của pháp luật. Theo cáo trạng, các đối tượng lợi dụng mạng xã hội, lập nhiều tài khoản, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bịa đặt những thông tin sai sự thật, tạo nghi ngờ, gây hoài nghi, bất mãn, làm giảm uy tín, mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân trong bộ máy chính quyền. 
Thủ đoạn của 2 đối tượng trên cũng là thủ đoạn mà các thế lực thù địch và các đối tượng phản động chủ yếu lợi dụng vào sự phát triển của thiết bị công nghệ, khả năng lan truyền, kết nối 3G, 4G, wifi cùng những lợi thế của công nghệ mới cùng internet tạo ra, xóa nhòa mọi không gian, tạo ra một “thế giới ảo”. Đặc biệt, các đối tượng này lợi dụng triệt để khả năng kiểm chứng thông tin trên “thế giới ảo”. Từ trên các tài khoản của mạng xã hội, các thế lực thù địch và đối tượng phản động tạo dựng, xuyên tạc, làm sai lệch thông tin, thật giả lẫn lộn, lồng ghép ý kiến chủ quan để lôi kéo, hướng dư luận theo dụng ý cá nhân.
Có một vấn đề nhiều người quan tâm. Tại sao các thế lực thù địch, đối tượng phản động thường “tung chiêu” đưa luận điệu chống phá Đảng và Nhà nước nhằm vào các sự kiện quan trọng? Là do, khi Đảng, Nhà nước tổ chức các sự kiện quan trọng, số lượng người dân theo dõi nhiều hơn, các quan khách của các quốc gia cũng được mời đến dự nhiều hơn. Bên cạnh đó, các cơ quan truyền thông các nước cũng có sự quan tâm, theo dõi nhiều hơn. Đây lại là sự kiện chính trị lớn nên cũng “hút” sự quan tâm của giới quan sát phân tích “chính trị” để có sự đánh giá, nhận định không chỉ về kinh tế, xã hội, an ninh-quốc phòng, mà còn cả vấn đề chính trị, nhất là có những thay đổi về cương lĩnh chiến lược, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta. Đây chính là “cơ hội” để các thế lực thù địch và các đối tượng phản động “ra tay”. 
Muốn có sự chú ý, đương nhiên phải chọn thời điểm nhạy cảm. Muốn tạo điểm nóng, dư luận về “sự việc” đưa ra, điều kiện nào tốt bằng khi có quan khách của các quốc gia đến tham dự. Muốn lợi dụng được ý kiến đánh giá “có vẻ” khách quan của các chuyên gia, các nhà phân tích thì phải lôi kéo, tạo điểm nóng từ sự kiện đó. Vì thế, nếu xem xét trên góc độ thời cơ, trước, trong và sau tổ chức các sự kiện trọng đại luôn là thời điểm tốt nhất để tiến hành.  
Trong khi đó, cuộc sống mưu sinh hiện tại lại luôn thôi thúc mọi người phải dành thời gian và tâm sức cho công việc. Việc có thể bình tâm để xem xét, lắng nghe hay xác minh những thông tin trên mạng xã hội hay còn gọi là “thế giới ảo” là rất khó. Tất nhiên là khi muốn thực hiện âm mưu đen tối của mình, các thế lực thù địch, đối tượng phản động sẽ không từ một thủ đoạn nào. Từ những luận điệu đưa ra, các đối tượng thù địch, phản động không chỉ sử dụng nhiều tài khoản khác nhau, mà còn mua chuộc, trả tiền, lôi kéo nhiều người khác chia sẻ để tạo độ lan truyền theo kiểu “vết dầu loang”.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đang tập trung chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XIII. Đây sẽ là thời điểm các thế lực thù địch và đối tượng phản động tập trung tung “chiêu bài” chống phá. Chúng triệt để lợi dụng các trang mạng xã hội, blog cá nhân để làm “nóng” các vấn đề của đất nước như tệ nạn xã hội, tham nhũng, lãng phí.
Từ những vấn đề đó, tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong xã hội, kích động tâm lý bất mãn với chính quyền. Đối với những vấn đề nhạy cảm chính trị xã hội, vụ việc phức tạp thu hút sự quan tâm của quần chúng sẽ được khai thác, phát tán thành chiến dịch truyền thông trên mạng xã hội. Trên cơ sở đó, phá hoại tư tưởng, tấn công chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang nhằm phá hoại nội bộ, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với xã hội.
Sử dụng các fanpage trên mạng, chúng kêu gọi tập hợp lực lượng, hình thành và công khai hóa tổ chức chính trị đối lập trá hình; sử dụng internet và mạng xã hội để bày tỏ quan điểm đối lập, lôi kéo các đối tượng bất mãn, các nhà báo, nhà văn, cán bộ, đảng viên sai phạm, thoái hóa biến chất, dựng chuyện, viết bài với dụng ý xấu, phát tán rộng rãi trên cộng đồng mạng. Từ đó, kích động gây rối, biểu tình, thậm chí có hành vi chống đối chính quyền, gây bất ổn an ninh, trật tự, tạo thời cơ tiến hành “cách mạng đường phố” tại Việt Nam như các cuộc “cách mạng hoa hồng”, “cách mạng áo vàng”, “cách mạng dù” xảy ra ở một số nước.
Cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư, không chỉ tạo ra “một thế giới phẳng”, xóa bỏ mọi ngăn cách về không gian của xã hội con người mà nó còn tạo ra một “thế giới ảo”, nơi tạo nên sự trộn lẫn trắng đen, thật giả để các thế lực thù địch và các đối tượng phản động lợi dụng. Tiếp nhận thông tin nhưng biết chọn lọc thông tin; lắng nghe các quan điểm nhưng cũng rất cần biết sàng lọc các luận điểm, đó là sự lựa chọn thông minh trong “thế giới ảo”. Không vững bản lĩnh, không đủ tỉnh táo, hùa theo những gì “nhặt” được trên “thế giới ảo”, không chỉ đánh mất bản thân mà còn tiếp tay cho các thế lực, đối tượng phản động lợi dụng truyền bá những luận điệu thù địch, sai trái.
#HHĐ#YHB#

TẢN MẠN VỀ NGÀY 25 THÁNG 12

Ki Tô Giáo thường ồn ào rầm rộ trong mùa lễ “Giáng Sinh” của họ, tuy thật ra chẳng ai biết Chúa Giê-su của Ki Tô Giáo sinh ra năm nào, ngày nào, giờ nào, và ở đâu. Vì không ai biết, nên Giáo hoàng Julius I, nhân danh là đại diện của Chúa trên trần, đã quyết định vào năm 350 là Giê-su sinh vào ngày 25 tháng 12. Vậy ngày “giáng sinh” là ngày do giáo hoàng Julius I quyết định chứ không phải là ngày sinh thực của Giê-su mà không ai biết. Nhưng từ đâu mà có ngày 25 tháng 12? Ngày xưa, nhân dân khắp nơi thường là thờ mặt trời, thấy mùa Đông ngày càng ngày càng ngắn nên rất lo sợ bị mất đi dần ánh sáng của mặt trời. Đến ngày Đông Chí, ngày lại bắt đầu dài ra, cho nên con người ăn mừng để ca tụng và tạ ơn mặt trời. Giáo hội Công Giáo nổi tiếng là thường đi cầm nhầm những thứ của dân gian [đã được chứng minh có đầy trong Tân Ước] cho nên Giáo hoàng Julius I, vào năm 350, đã lấy ngày Đông Chí làm ngày giáng sinh của Giê-su, ngụ ý ánh sáng của Giê-su đã thắng sự tăm tối. Đây là một bước đi rất thuận tiện, vừa phù hợp với sự ăn mừng của dân gian, vừa nhốt tín đồ vào trong vòng mê tín.
Nhưng về sau, người ta khám phá ra rằng Julius I đã vơ lấy ngày Đông Chí là ngày 25 tháng 12, tính theo lịch Julius (Julian Calendar). Nhưng lịch này đã tính sai mất mấy ngày, về sau lịch Gregory mà chúng ta dùng ngay nay tính lại thì ngày Đông chí phải là 21 tháng 12, có thể xê xích một chút nhưng không thể nào là ngày 25 được. Nhưng ngày 25 tháng 12 đã trở thành ngày lễ “giáng sinh” trong Ki-tô Giáo nên ngày nay Ki-tô Giáo vẫn tiếp tục ăn mừng “lễ Giáng Sinh” vào ngày 25 tháng 12, tuy không ai biết rõ ngày “giáng sinh” của Giê-su là ngày nào.
Thật vậy, những chi tiết về gia phả và sự sinh ra của Giê-su trong Thánh Kinh có quá nhiều mâu thuẫn nên không cho phép bất cứ ai khẳng định ông ta đích thực là con của ai, sinh ra ngày nào, và ở đâu. Phúc Âm Matthew viết là Giê-su sinh ra trong triều đại của vua Herod, nhưng lịch sử lại chứng tỏ rằng Vua Herod chết vào năm – 4, nghĩa là 4 năm trước khi Chúa sinh ra đời. Phúc Âm Luke cho rằng Giê-su sinh ra trong thời có cuộc kiểm tra dân số của Quirinius, Toàn Quyền Syria và Judea (Do Thái). Nhưng lịch sử lại chứng tỏ rằng cuộc kiểm tra này xảy ra năm 6-7, nghĩa là 6-7 năm sau khi Chúa sinh ra đời. Sự mâu thuẫn trong hai Phúc Âm trên là một bài toán nan giải cho các nhà thần học Ki Tô Giáo. Cho nên rút cuộc họ dạy tín đồ là “cứ tin đi thì sẽ được tất cả” và tín đồ, vì cái “được tất cả” đó cho nên không cần biết đến những mâu thuẫn trong Thánh Kinh và tiếp tục tin rằng ngày “Chúa của họ sinh ra đời” đúng là ngày 25 tháng 12 theo Thường Lịch. Niềm tin này vô hại, chỉ lợi cho những nhà buôn bán, khai thác triệt để sự mê tín pha trộn với sự kém hiểu biết trong dân gian, để bán hàng.

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, TỔ CHỨC CÁN BỘ PHẢI ĐƯỢC QUAN TÂM ĐẶC BIỆT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHẤT LÀ CHUẨN BỊ CHO ĐẠI HỘI 13 CỦA ĐẢNG!

Phát biểu tại hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 sáng nay, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng ghi nhận công tác tổ chức xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chống chạy chức, chạy quyền có chuyển biến mạnh mẽ.

Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng: Nói không có chạy chức chạy quyền thì không dám nhưng nay đã giảm rất nhiều

*. Chạy chức, chạy quyền đã giảm nhiều
Thường trực Ban Bí thư điểm lại một số kết quả mà ngành tổ chức xây dựng Đảng đạt được trong năm và nhìn lại 4 năm qua, trong đó có công tác chuẩn bị Đại hội Đảng 13, công tác quy hoạch cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược.
Sau đây là những nội dung được Thường trực Ban Bí thư nêu về công tác cán bộ hiện nay cần phải làm tốt:
" Đây là vấn đề cực khó, không phải lần đầu tiên làm, trước đây đã có nhiều chủ trương, nhưng cứ nói giảm đầu mối thì đầu mối tăng, bộ máy cồng kềnh; cứ nói giảm biên chế thì biên chế tăng. Vừa qua chúng ta làm quyết liệt, thực sự làm", Thường trực Ban Bí thư nói.
" Từ đầu nhiệm kỳ luân chuyển nhiều rồi nhưng thấy rất tốt. Các đồng chí đi luân chuyển đều giữ vị trí quan trọng và phát huy tác dụng. Đây là cơ sở để chuẩn bị cho nhân sự đại hội tới đây. Trước đây chúng ta làm từng đợt, không tránh khỏi có chuyện "chạy". Bây giờ, nếu khẳng định không có gì thì chưa dám nhưng giảm rất nhiều", ông Vượng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, ông cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, trong đó biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến phức tạp.
*. Không chấp nhận mọi biểu hiện cục bộ, bè phái, “vận động”
Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh 5 nhiệm vụ năm 2020. Trong đó, trọng tâm là tham mưu chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội 13 của Đảng, trước hết là công tác nhân sự.
 “ Chú trọng phát hiện, giới thiệu tham gia cấp uỷ những nhân tố mới có đức, có tài, có uy tín, có triển vọng thông qua hoạt động thực tiễn, quan tâm cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số”, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh.
Việc đánh giá cán bộ phải chặt chẽ và thực chất, đặc biệt coi trọng phẩm chất, uy tín, hiệu quả công tác cụ thể.
“ Người được giới thiệu tham gia cấp ủy phải toàn tâm, toàn ý với công việc của Đảng, của Nhà ước, đoàn thể; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân trên hết. Chúng ta không chấp nhận mọi biểu hiện cục bộ, bè phái, vận động trong quá trình giới thiệu, bầu cử".
 “Kiên quyết sàng lọc, không để lọt vào cấp uỷ khoá mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, 'tự diễn biến', 'tự chuyển hoá' trong nội bộ; chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực, 'lợi ích nhóm'; bản thân hoặc vợ (chồng), con vi phạm”, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh
Theo ông Vượng, cán bộ là vấn đề quyết định, là then chốt của then chốt. Do vậy phải đặc biệt chú ý, thành bại là do cán bộ.
" Hết sức chú ý công tác nhân sự. Đây là vấn đề quan trọng vì cơ đồ ta xây dựng 75 năm nay sụp đổ hay không cũng do mình thôi, chẳng phải do kẻ thù đâu, chẳng ai xâm lược mình, chẳng ai mang máy bay, đại bác đến xâm lược, lật đổ chúng ta đâu. Ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta", Thường trực Ban Bí thư lưu ý.
"Nếu như cán bộ đảng viên thực sự nêu gương, thấy mình không đủ điều kiện, tiêu chuẩn cấp uỷ, phải tự nguyện xin không tham gia cấp uỷ khoá tới", ông nhấn mạnh.
 A.K 
     Tài liệu về xây dựng Đảng, tổ chức cán bộ:
- http://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/cong-tac-can-bo-la-cong-viec-goc-cua-dang-116270
http://tcnn.vn/news/detail/45360/Tu-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-cong-tac-can-bo-den-xay-dung-doi-ngu-can-bo-theo-tinh-than-Nghi-quyet-Hoi-nghi-Trung-uong-lan-thu-bay-khoa-XII.html
http://nguoilambao.vn/toan-van-nghi-quyet-trung-uong-7-ve-cong-tac-can-bo-nwf9615.html

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2019

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


QĐND - Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam trong hơn bảy thập kỷ qua không chỉ khẳng định về sự cần thiết phải tổ chức xây dựng quân đội cách mạng-quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đánh đuổi thực dân, đế quốc, đánh đổ phong kiến, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới mà còn khẳng định QĐND Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ xã hội mới.
Ấy vậy mà gần đây, trên một vài trang mạng lại có kẻ xuyên tạc rằng: Quân đội không vì mục đích lý tưởng mà vì miếng cơm, manh áo và lợi ích cá nhân, sẵn sàng phản bội Đảng khi không được cung cấp đủ lợi ích... Đây là một giọng điệu hết sức nguy hiểm bởi lẽ nó đã trắng trợn xuyên tạc bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
Lịch sử 75 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta đã khẳng định, QĐND Việt Nam luôn vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội (CNXH), vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội đã sẵn sàng lên đường chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Độc lập dân tộc và CNXH.
QĐND Việt Nam là công cụ bạo lực vũ trang, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, của Nhà nước, vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân trong thực hiện vai trò là lực lượng nòng cốt hỗ trợ cho quần chúng nhân dân đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả của cách mạng. Quân đội ta là lực lượng nòng cốt, cùng toàn dân tiến hành đấu tranh và đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và tham gia vào công cuộc kiến thiết, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Là lực lượng nòng cốt, cùng đồng bào hai miền Nam, Bắc tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên CNXH. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN), tham gia khắc phục hậu quả sau chiến tranh, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ XHCN; SSCĐ, hy sinh vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân là vấn đề thuộc về bản chất của QĐND Việt Nam, quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Ngay trong khói lửa của những cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, biết bao cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích cao nhất là giành độc lập, tự do cho dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ quân đội đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để huấn luyện, SSCĐ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo; tham gia lao động sản xuất xây dựng đất nước, tham gia phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc…
Cùng với việc giáo dục, rèn luyện để QĐND Việt Nam luôn luôn là công cụ bạo lực vũ trang, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, của Nhà nước, vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân; trong điều kiện hòa bình, với sự phát triển toàn diện của đất nước do thắng lợi của công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân cũng hết sức quan tâm bảo đảm lợi ích vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Bằng sự quan tâm sâu sắc, với những chủ trương đúng đắn, kịp thời, Đảng và Nhà nước thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, nhất là chế độ, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, những người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin… tạo việc làm cho những quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự về các cơ quan, địa phương làm việc…
Sự quan tâm đến chế độ chính sách của cán bộ, chiến sĩ quân đội trong những năm qua của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức chính trị-xã hội, của nhân dân đối với quân đội, không chỉ khẳng định sự quan tâm chăm lo của Đảng, của Nhà nước và nhân dân trong quá trình xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho QĐND Việt Nam mãi mãi là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam, mà còn là nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sĩ an tâm xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Trong điều kiện tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới; nhân dân ta, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, biên giới, hải đảo vẫn còn nhiều khó khăn cả về đời sống vật chất và tinh thần. Vì vậy, sự quan tâm bảo đảm về vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ quân đội cũng còn gặp nhiều khó khăn, nhưng không vì thế mà cán bộ, chiến sĩ quân đội lại suy giảm bản chất của quân đội cách mạng. Ngược lại, càng trong khó khăn, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ quân đội càng sáng ngời bản chất cách mạng, sáng ngời bản chất, truyền thống của Bộ đội Cụ Hồ.
Những giọng điệu mà kẻ xấu tán phát trên mạng không phải là do nhận thức chưa đầy đủ, thiếu đúng đắn về bản chất của QĐND Việt Nam mà thực ra họ đang cố tình xuyên tạc sự thật, phủ nhận bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam, kích động chia rẽ quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sâu xa hơn là "phi chính trị hóa" quân đội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với quân đội.
Trong thời kỳ mới, cùng với đấu tranh phản bác những giọng điệu nguy hiểm ấy, chúng ta cần tập trung xây dựng bảo đảm cho quân đội luôn luôn là công cụ bạo lực, lực lượng chính trị trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, SSCĐ, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.
Để làm được điều ấy, trước hết cần thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện, tăng cường bản chất cách mạng của quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Xây dựng lòng trung thành của quân đội trong thời kỳ mới thực chất là tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho quân đội kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Làm cho quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật Nhà nước; thấm nhuần sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với đó, cần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ, tinh thông kỹ, chiến thuật, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu CNXH và tinh thần quốc tế vô sản cao cả. Mặt khác, cần thường xuyên quan tâm bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ, chiến sĩ quân đội, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, của quân đội. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, cống hiến với hưởng thụ, thể hiện bản chất của quân đội cách mạng trong điều kiện mới. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong quân đội cũng phải tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống những luận điệu xuyên tạc bản chất cách mạng của QĐND Việt Nam trong tình hình mới.
#HHĐ#YHB#

ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO TIẾP TỤC PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC


Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động theo khuôn khổ pháp luật để phát huy tối đa tinh thần đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước


Ngày 21/12, đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước và Ủy ban MTTQ Việt Nam do đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đã đến thăm, chúc mừng Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh, Tổng Giám mục Nguyễn Năng.
Tại Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã trân trọng chuyển lẵng hoa của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, lẵng hoa của Thủ tướng Chính phủ chúc mừng tân Tổng Giám mục Tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh nhân dịp lễ Giáng sinh.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp tích cực của đồng bào Công giáo tại Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh vào sự phát triển của TP trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao…
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động theo khuôn khổ pháp luật để phát huy tối đa tinh thần đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, bày tỏ mong muốn Tổng Giám mục Nguyễn Năng và các chức sắc, đồng bào Công giáo TP tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, xây dựng Giáo hội Công giáo Việt Nam theo phương châm "Sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào", tham gia tích cực vào các phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng TP ngày càng phát triển bền vững.
Tổng Giám mục Nguyễn Năng bày tỏ niềm vui, tự hào về những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được trong năm qua. Tổng Giám mục Nguyễn Năng cảm ơn sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ đối với các hoạt động của đồng bào Công giáo và xin hứa sẽ tiếp tục động viên các chức sắc, Giáo dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào các phong trào thi đua yêu nước, cùng chung tay góp sức với đồng bào TP xây dựng đất nước thịnh vượng.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đến thăm, chúc mừng Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn 
Đến thăm Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn, nguyên Tổng Giám mục TP. Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trân trọng ghi nhận vai trò to lớn của Hồng y đối với cộng đồng Công giáo Việt Nam nói chung và Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tin tưởng Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn tiếp tục cùng các vị chức sắc động viên, dẫn dắt Giáo dân tiếp tục hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, cùng chung sức vun đắp, đóng góp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn thể hiện truyền thống “Kính Chúa, yêu nước". Dịp này, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình chúc Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn nhiều sức khỏe, trường thọ cùng với đồng bào Giáo dân hưởng mùa Giáng sinh an lành, hạnh phúc, bình an.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã đến thăm, chúc mừng Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) 
#HHĐ#YHB#

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2019

DỰ ÁN KÊNH ĐÀO KARA CỦA THÁI LAN: LỊCH SỬ, HIỆN TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG

Ít có dự án xây dựng lớn nào nằm trên bảng vẽ lâu như kênh đào Kra của Thái Lan. Ý tưởng xây dựng một tuyến đường thủy qua Eo đất Kra ở vùng Thượng Nam đất nước để nối Vịnh Thái Lan với biển Andaman – từ đó nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương – được đề xuất lần đầu cách đây hơn 300 năm. Kể từ đó, dự án đã được tái sinh nhiều lần, dẫn đến một loạt các cuộc khảo sát kỹ thuật và nghiên cứu khả thi đắt đỏ, trước khi lặng lẽ bị hủy bỏ.
Những lập luận ủng hộ và phản đối kênh đào Kra đã tồn tại và được lặp đi lặp lại từ lâu.
Những người ủng hộ kênh đào chỉ ra các lợi ích kinh tế và chiến lược mà Thái Lan sẽ nhận được. Họ lập luận rằng việc xây dựng kênh đào dài 100 km và cơ sở hạ tầng công nghiệp liên quan như cảng, nhà máy sản xuất và nhà máy lọc dầu, sẽ tạo công ăn việc làm cho hàng chục nghìn công nhân Thái Lan, kích thích nền kinh tế (đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái), và về lâu dài sẽ tạo ra doanh thu từ hoạt động thu phí quá cảnh. Về mặt quân sự, kênh đào sẽ cho phép hải quân Thái Lan di chuyển tàu nhanh chóng từ bờ biển phía bên này sang bờ bên kia trong lúc nguy cấp. Không chỉ vậy, kênh đào Kra còn mở ra một tuyến đường nhanh và tiết kiệm hơn giữa Ấn Độ Dương và Biển Đông, từ đó đưa đến một giải pháp thay thế khả thi cho Eo biển Malacca ngày càng quá tải và “bị quấy phá bởi hải tặc”.
Những người chỉ trích kênh đào vẫn cảm thấy không thuyết phục. Họ chủ yếu cho rằng kênh đào Kra không khả thi về mặt thương mại: chi phí xây dựng khổng lồ không thể lấy lại được từ phí quá cảnh bởi các công ty vận chuyển sẽ không sẵn lòng chịu thêm chi phí chỉ để tiết kiệm hai hoặc ba ngày đường (đặc biệt là vào thời điểm giá dầu thấp). Trường hợp này khá khác với trường hợp của kênh đào Suez và Panama, khi hai kênh đào này giúp tàu thuyền tiết kiệm được hàng tuần đi biển. Về mặt lợi ích chiến lược, các nhà phê bình cho rằng Thái Lan không phải đối mặt với mối đe dọa nào từ các nước láng giềng, một kênh đào sẽ chia cắt đất nước thành hai nửa và do đó tiếp thêm động lực cho những kẻ ly khai ở miền Hạ Nam, đồng thời quyền sở hữu và vận hành tuyến đường thủy chắc chắn sẽ bị cuốn vào cuộc đua quyền lực của các nước lớn.
Kể từ cuộc đảo chính năm 2014, đề xuất xây dựng kênh đào Kra lại xuất hiện trở lại. Lần này, những người bảo vệ dự án cho rằng tình thế đang ngả về hướng ủng hộ kênh đào vì ba lý do chính. Thứ nhất, Thái Lan có một vị vua mới và nhà vua cần củng cố di sản của mình. Thứ hai, Trung Quốc hứng thú với việc đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng khu vực như kênh đào Kra trong khuôn khổ Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI). Và thứ ba, chính phủ Thái Lan đã ban hành một chiến lược phát triển quốc gia cho hai thập niên tới, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các sáng kiến ​​kết nối toàn cầu.
Sau phần tổng quan vắn tắt về lịch sử của tuyến đường thủy được đề xuất, bài luận này sẽ đánh giá các nhân tố có khả năng thay đổi cuộc chơi và kết luận rằng chúng không thúc đẩy được triển vọng của kênh đào là bao.
Lịch sử ba trăm năm 
Mặc dù việc xây dựng kênh đào Kra được cân nhắc lần đầu vào năm 1677, và một lần nữa vào năm 1793, nhưng phải đến thế kỷ 19 bản đề xuất này mới nhận được sự quan tâm nghiêm túc. Tuy nhiên, sự quan tâm này không chỉ đến từ Thái Lan, mà còn từ các cường quốc thuộc địa đối địch là Anh và Pháp.
Giữa thế kỷ 19, người Anh đã nghiên cứu tính khả thi của việc xây dựng tuyến đường sắt hay kênh đào qua Eo đất Kra để tạo thuận lợi cho thương mại giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Các kỹ sư người Anh đã tiến hành các cuộc khảo sát vào năm 1843, 1849, 1863 và 1872. Họ kết luận rằng, dù việc thi công một tuyến đường sắt hay kênh đào khả thi về mặt kỹ thuật nhưng chi phí bỏ ra sẽ vô cùng cao. Người Pháp thì lại có những suy nghĩ khác. Năm 1883, Bá tước Bertrand-Francois Mahé de La Bourdonnais, một sĩ quan hải quân Pháp và quản trị viên tại Công ty Đông Ấn Pháp đã ủng hộ một kênh đào Kra với mục tiêu thúc đẩy lợi ích thương mại của Pháp ở Đông Dương. Bourdonnais dự tính rằng một khi kênh đào được hoàn thành, một Sài Gòn do Pháp kiểm soát sẽ vượt qua một Singapore do Anh điều hành để trở thành khu cảng quan trọng nhất Đông Nam Á. Nhằm bảo vệ lợi ích thương mại của mình trên Bán đảo Malay, Anh đã phản đối kênh đào và buộc các quốc vương và chính phủ Thái Lan liên tiếp bác bỏ đề nghị của Pháp. Hai lần vào năm 1897 và 1946, Anh đã buộc Xiêm ký các thỏa thuận mà trong đó đồng ý không cho phép xây dựng một kênh đào liên đại dương.

Mãi đến đầu những năm 1970, dự án kênh đào mới được xem xét lại. Năm 1972, một nhà công nghiệp người Thái gốc Hoa, K.Y. Chow, đã thuyết phục chính phủ Thái Lan xem xét dự án này. Cũng như các đề xuất trước đây, Chow lập luận rằng mặc dù chi phí xây dựng sẽ đắt đỏ nhưng cuối cùng kênh đào sẽ thu về lợi nhuận từ các hoạt động cảng, phí quá cảnh và phí trung chuyển. Chow đã tài trợ cho một nghiên cứu khả thi trị giá 400.000 USD được thực hiện bởi công ty tư vấn Tippetts-Abbett-McCarthy-Stratton (TAMS) của Hoa Kỳ. Trong số chín tuyến đường khả thi được khảo sát, TAMS đề xuất Tuyến 5A: tuyến kênh một chiều dài 102 km từ bờ biển phía tây Satun đến Songkhla ở phía đông. TAMS ước tính sẽ mất 12 năm để xây dựng kênh đào với chi phí 5,6 tỷ USD; hoặc mười năm và 3,5 tỷ USD nếu công việc phá đá sử dụng thiết bị nổ hạt nhân loại nhỏ. Tuy nhiên, ngay sau khi TAMS đệ trình báo cáo lên chính phủ Thái Lan, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu và dự án bị hoãn lại. Trong suốt những năm 1970 và 1980, Nhật Bản thỉnh thoảng lại bày tỏ quan tâm đến việc tài trợ xây dựng kênh đào Kra. Dầu mỏ nhập khẩu của Nhật Bản từ Trung Đông phụ thuộc rất nhiều vào Eo biển Malacca, và vào đầu những năm 1970, Tokyo trở nên lo ngại khi Indonesia và Malaysia đề xuất đưa ra các hạn chế đối với quy mô tàu chở dầu đi qua eo biển này. Vào giữa những năm 1980, Viện nghiên cứu Mitsubishi Nhật Bản đã xem xét lại các khuyến nghị của TAMS (bao gồm cả nổ phá đá bằng hạt nhân) nhưng không có tiến triển nào sau đó.
Vị trí của kênh đào Kara - Thái Lan

Đầu những năm 2000, trong nhiệm kỳ thủ tướng của Thaksin Shinawatra, kênh đào Kra đã xuất hiện trở lại trong chương trình nghị sự quốc gia của Thái Lan. Sáng kiến ​​này được dẫn đầu bởi Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng Chavalit Yongchaiyudh, một vị tướng đã nghỉ hưu của Quân đội Hoàng gia Thái Lan. Chavalit cũng ủng hộ kênh Kra bởi khả năng tạo ra hàng nghìn việc làm và tự chi trả trong một khoảng thời gian ngắn. Theo Chavalit – đối tác của quân đội Trung Quốc trong Khủng hoảng Campuchia những năm 1980 – Trung Quốc là một trong các quốc gia Đông Á quan tâm đến việc tài trợ cho kênh đào. Một nghiên cứu khả thi khác đã được triển khai, nhưng dự án đã đổ bể trong vòng vài năm giữa những cáo buộc về quản lý tài chính và tham nhũng. Năm 2005, Thaksin đề xuất xây dựng một đường ống dẫn dầu qua eo đất Kra như một phương án thay thế rẻ hơn cho kênh đào. Dự án đã kết thúc khi Thaksin bị quân đội lật đổ năm 2006.
Kênh đào Kra giai đoạn sau Đảo chính 2014 
Kể từ cuộc đảo chính quân sự năm 2014, kênh đào Kra một lần nữa bước vào cuộc tranh luận chính sách quốc gia. Có hai phe ủng hộ chính: Hiệp hội Kinh tế và Văn hóa Thái Lan-Trung Quốc (TCCEA) và Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Kênh đào Thái Lan (TCASD).
Năm 2015, TCCEA đã kêu gọi chính quyền quân sự ủng hộ xây dựng kênh đào Kra bằng cách sử dụng Tuyến 5A của TAMS. Theo phó giám đốc của hiệp hội, Pakdee Tanapura, dự án sẽ tiêu tốn 20 tỷ USD và mất tám năm để hoàn thành.
Trong một sự kiện cùng năm dù dường như không liên quan, có thông tin cho rằng hai đơn vị là Tập đoàn Liên hiệp Châu Á của Thái Lan (AUG), điều hành bởi cựu Thủ tướng Chavalit, và Công ty Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Kra Trung Quốc-Thái Lan đặt tại Trung Quốc (CTKIID) đã ký một bản ghi nhớ (MOU) về xây dựng một kênh đào qua Eo đất Kra. Tuy nhiên, cả chính phủ Thái Lan và Trung Quốc đều tuyên bố mạnh mẽ không liên quan gì tới MOU này, trong khi Chavalit phủ nhận mọi liên hệ với AUG. Không ai còn nghe đến MOU, AUG và CTKIID kể từ đó.
Năm 2017, một nhóm doanh nhân và sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu đã thành lập TCASD để ủng hộ việc xây dựng kênh đào (mà họ thích gọi là “Kênh đào Thái” hơn là kênh đào Kra). Được dẫn dắt bởi một vị tướng đã nghỉ hưu, Pongthep Tesprateep, TCASD đã đề xuất dùng Tuyến 9A của TAMS – con kênh dài 120km từ bờ biển phía tây Krabi đến bờ biển phía đông Nakhon Si Thammarat. Họ cho rằng, điểm cuối phía đông của kênh đào Thái Lan sẽ hoàn thiện Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC), một trung tâm đổi mới và vận tải công nghệ cao trị giá 40 tỷ USD trải dài qua ba tỉnh trên Vịnh Thái Lan, dự kiến ​​hoàn thành vào khoảng giữa năm 2021 và 2025. Để thảo luận kỹ hơn về đề xuất này, TCASD đã tổ chức một hội nghị về kênh đào ở Bangkok vào tháng 9/2017.
Ba nhân tố tiềm năng thay đổi cuộc chơi
Cả TCCEA và TCASD đều dùng những luận điểm cũ để bảo vệ kênh đào: rằng việc xây dựng nó sẽ đóng vai trò là động lực cho nền kinh tế Thái Lan và cung cấp cho các công ty vận tải một giải pháp nhanh hơn, an toàn hơn thay cho Eo biển Malacca. Tuy nhiên, những người ủng hộ kênh đào cũng cho rằng ba nhân tố tiềm năng thay đổi cuộc chơi đã khiến kênh Kra trở thành một đề xuất khả thi hơn so với trước đây.
Kênh Đào Kra
Tuyến đường vận chuyển trên biển sẽ thay đổi lớn sau khi kênh đào Kra được đưa vào hoạt động
Đầu tiên là vị quốc vương mới của Thái Lan. Tháng 12 năm 2016, 50 ngày sau khi cha ông, Vua Bhumipol Adulyadej qua đời, Vua Vajirasongkorn trở thành vị vua thứ mười của triều đại Chakri. Lễ đăng quang của ông diễn ra vào tháng 5/2019. Ở tuổi 64, Vajirasongkorn là vị vua lớn tuổi nhất của Thái Lan khi lên ngôi. Việc hiện thực hóa giấc mơ ba thế kỷ của Vương quốc – xây dựng kênh đào Kra – sẽ củng cố di sản của ông, đặc biệt nếu kênh đào được đặt theo tên ông. Tuy nhiên, vì nhà Vua chưa bao giờ đề cập đến dự án này trước công chúng nên người ta không rõ liệu ông có ủng hộ hay không. Nếu ông ủng hộ, giới tinh hoa cầm quyền Thái Lan có thể cân nhắc dự án này một cách nghiêm túc hơn.
Thứ hai là Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Do đặc điểm vị trí địa lý ở trung tâm của Đông Nam Á lục địa của Thái Lan, Trung Quốc coi Thái Lan là điểm mấu chốt trong dự án cơ sở hạ tầng toàn cầu trị giá hàng nghìn tỷ đô la của mình. Kể từ cuộc đảo chính năm 2014, chính quyền của Thủ tướng Prayut Chan-ocha đã ủng hộ BRI mạnh mẽ. Tuy nhiên, dự án BRI nổi bật nhất của Trung Quốc tại Thái Lan, mạng lưới Đường sắt Cao tốc (HSR), đã nhiều lần bị trì hoãn do những bất đồng về vấn đề tài chính, công nghệ và vận hành. Trong nước, dự án HSR đã bị chỉ trích nặng nề bởi chi phí quá cao, thiếu minh bạch và khiến Thái Lan trở nên quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Thế nhưng, cả TCCEA và TCASD đều cho rằng Trung Quốc có thể tài trợ cho kênh đào Kra như một phần của một trong sáu hành lang kinh tế được BRI hậu thuẫn, Hành lang Kinh tế Bán đảo Đông Dương – Trung Quốc.
Quan điểm của Trung Quốc về kênh Kra không rõ ràng. Giữa những năm 2000, các nhà phân tích chiến lược của Trung Quốc cho rằng kênh đào sẽ tăng cường an ninh năng lượng của nước này bằng cách giảm nhu cầu đối với tàu chở dầu treo cờ Trung Quốc đi qua Eo biển Malacca, nơi bị “kiểm soát” bởi Hoa Kỳ. Được biết khi ấy, Trung Quốc ủng hộ đề xuất kênh đào của Chavalit nhưng sau cùng lại thấy không mặn mà vì mức đầu tư 20 tỷ USD. Một thập niên sau, Trung Quốc hào hứng hơn nhiều trong việc tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn như một phần của BRI. Hơn nữa, dù cái gọi là “Thế lưỡng nan Malacca” luôn bị phóng đại, các nhà phân tích chiến lược ở Trung Quốc vẫn xem kênh đào Kra là một cách hữu ích để đạt được “sự phân tán rủi ro”. Tuy nhiên, Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức quảng bá kênh đào này như một dự án BRI. Thế nhưng, theo quan điểm của nhiều nhà phân tích Thái Lan, Bắc Kinh đang âm thầm thúc đẩy các công ty Trung Quốc hỗ trợ cho kênh đào.
Nhân tố thứ ba có khả năng xoay chuyển cuộc chơi là Chiến lược Quốc gia hai mươi năm của Thái Lan. Được quy định bởi Hiến pháp 2017 và ban hành vào tháng 10/2018 bởi Văn phòng Ủy ban Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia (NESDB), Chiến lược Quốc gia đưa ra một tầm nhìn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Thái Lan từ năm 2018 đến năm 2037.
Tất cả các chính sách của chính phủ phải phù hợp với Chiến lược Quốc gia và Thượng viện giám sát việc tuân thủ đó. Chiến lược Quốc gia đề xuất Thái Lan phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng cao để kết nối đất nước với phần còn lại của thế giới. Mặc dù trong đó không đề cập cụ thể đến tuyến đường thủy qua Eo đất Kra song kênh đào có thể được xếp vào diện một dự án kết nối hạ tầng chất lượng cao. Rất khôn ngoan, TCASD đã đệ trình đề xuất kênh đào Kra của mình lên NESDB vào tháng 12/2017.
Phản ứng của Thủ tướng Prayut
Thủ tướng Prayut đã có phản ứng thận trọng trước nỗ lực mới để xây dựng kênh đào Kra: ông không tán thành và cũng không phản đối. Tháng 2/2018, phát ngôn viên của ông cho biết dù kênh đào không phải ưu tiên của chính phủ, song họ đang xem xét nó. Tháng 10/2018, có thông tin cho rằng Prayut đã yêu cầu NESDB xem xét đề xuất của TCASD.
Có một số yếu tố lý giải cho sự thận trọng của Prayut.
Đầu tiên, ông không muốn bị xa lánh bởi những người ủng hộ kênh đào, bao gồm các thành viên thuộc cộng đồng doanh nghiệp và các đồng nghiệp cũ của ông trong lực lượng vũ trang, bằng cách loại bỏ nó.
Thứ hai, kể từ năm 2014, Prayut dồn tâm trí vào việc tạo ra một cấu trúc chính trị mới, đảm bảo sự thống trị của quân đội và lật đổ những người chống lại nó. Cuộc bầu cử ngày 24/03/2019 là đỉnh điểm của tiến trình này. Như vậy, ông có khá ít thời gian để đánh giá ưu điểm và nhược điểm của kênh đào.
Thứ ba, và quan trọng nhất, chính quyền Prayut cần xem xét một loạt các yếu tố kinh tế, đối nội và địa chính trị đan xen và phức tạp trước khi thông qua một dự án xây dựng lớn và gây tranh cãi như vậy. Như mọi khi, vấn đề phải suy tính nhiều nhất là kinh tế: kênh đào sẽ được tài trợ bằng cách nào và có khả thi về mặt kinh tế hay không? Sự phụ thuộc vào Trung Quốc – ngay cả khi Bắc Kinh sẵn sàng bảo trợ cho dự án trị giá 20-30 tỷ USD – khả năng cao sẽ không được tán thành trong nước nếu xét những tranh cãi xung quanh dự án HSR và việc Thái Lan mua tàu ngầm của Trung Quốc trước đó. Nếu muốn đề xuất này nhận được sự ủng hộ toàn quốc, nó phải được nhìn nhận như một sáng kiến ​thuộc sở hữu hoàn toàn của Thái Lan chứ không phải của Trung Quốc. Một kênh đào Kra thuộc Sáng kiến Vành đai và Con đường cũng sẽ tạo ra phản ứng tiêu cực từ đồng minh của Thái Lan – Hoa Kỳ, nhất là khi chính quyền Trump từng chỉ trích sáng kiến này là chiến lược “ngoại giao bẫy nợ”.
Các nhà phân tích chiến lược Thái Lan lo ngại rằng kênh đào Kra có thể trở thành đối tượng của sự cạnh tranh Trung – Mỹ, giống như cách dự án này từng bị kéo vào cuộc cạnh tranh Pháp – Anh vào thế kỷ 19. Đáng ngạc nhiên, một số người Thái vẫn bày tỏ lo lắng rằng kênh đào sẽ chia cắt đất nước và kích động những người miền nam ly khai. Thực tế hơn, những người khác lo lắng rằng tuyến đường thủy dài 100 km sẽ dễ bị tấn công bởi những người Hồi giáo gốc Malay nổi loạn. Bangkok cũng phải cân nhắc sự nhạy cảm thương mại của các nước láng giềng, đặc biệt là Singapore và Malaysia, khi kênh đào có thể chuyển những tuyến hàng hải có giá trị ra khỏi cảng của họ. Chính phủ Thái Lan cũng cần xem xét tác động môi trường đến từ việc xây dựng dự án lớn này và cách mà nó sẽ ảnh hưởng đến ngành du lịch đang mang lại nhiều lợi nhuận của quốc gia.
Ảnh hưởng của kênh đào Kara tới Việt Nam
Nếu dự án Kênh đào được triển khai thì Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều, tuyến đường hàng hải quốc tế sẽ chạy dọc và bó sát các thành phố duyên hải Việt Nam từ Phú Quốc đến Vịnh Vân Phong. Khi kênh đào này khai thông, vùng Vịnh Thái Lan thuộc lãnh hải Việt Nam sẽ trở nên nhộn nhịp và Phú Quốc với cơ sở kinh tế hạ tầng tốt sẽ có thể cạnh tranh với các cảng khác trong vùng vì đây là hòn đảo lớn nhất trong Vịnh Thái Lan và có thể làm cảng lớn. Cảng nước sâu Nam Du đã giao cho Tân Tạo triển khai, trước mắt sẽ làm cảng phục vụ cho Phú Quốc có tính đến tương lai mở rộng. Và ước mơ về một đặc khu kinh tế mở rộng của Việt Nam sánh với Singapore hoặc Thâm Quyến là điều có thể.
Đối với sự ảnh hưởng của kênh đào tới Vịnh Vân Phong. Trước tiên, cần khẳng định lại rằng giá trị tiềm năng của Vịnh Vân Phong là rất to lớn, chúng ta đã nhìn thấy và tìm cách khai thác. Nhưng thực tế nhiều năm qua, Vân Phong hầu như vẫn "nằm im". Nằm ở cực đông của đất liền Việt Nam, cách hải phận quốc tế 14 hải lý, gần các tuyến hàng hải quốc tế. Đây thực sự là một uu đãi lớn của thiên nhiên đối với Việt Nam không chỉ ở giá trị sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng mà nó còn hứa hẹn đem lại tiềm năng kinh tế to lớn khi chính phủ quyết định xây dựng nơi đây thành một đặc khu kinh tế, trong đó trọng điểm là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong. Hiếm cảng nào mà tàu có thể vào một đầu và ra một đầu như ở vịnh Vân Phong như vậy.
Nếu nhìn trên bản đồ ta sẽ thấy Vân Phong như là trung điểm giữa Singapore và HongKong (Hai thương cảng sầm uất nhất thế giới). Kể cả không có kênh đào Kara thì vị trí của Vân Phong quá đẹp để làm cảng trung chuyển quốc tế. Và mọi thứ sẽ nhân đôi lên khi kênh đào Kara được thực thi. Toàn bộ hải trình sầm uất của thế giới dịch chuyển từ Malacca sang Kara thì vị trí của Vân Phong để phát triển thành cảng trung chuyển thế giới lại càng thuận lợi hơn.
Kết luận
Các lập luận ủng hộ và phản đối việc xây dựng kênh đào Kra cứ lặp đi lặp lại như vậy. Những nhân tố tiềm năng xoay chuyển cuộc chơi đã thay đổi bối cảnh cuộc tranh luận một cách không đáng kể. Nếu dự án muốn được tiến hành, nó cần nhận được sự đồng tình của quốc vương, và cho đến nay Vua Vajirasongkorn vẫn không thể hiện bất cứ động thái ủng hộ nào. Một tuyến đường thủy do Trung Quốc tài trợ sẽ gây ra nhiều tranh cãi trong nước và ảnh hưởng đến quan hệ Thái Lan – Hoa Kỳ, vốn vừa khôi phục sau cuộc đảo chính năm 2014. Một yếu tố mang tính quyết định khác là việc coi dự án này như một dự án cơ sở hạ tầng then chốt trong Chiến lược Quốc gia. Tuy nhiên, khi chính quyền Prayut vẫn còn đau đầu với các khó khăn chính trị, thâm hụt ngân sách gia tăng, và nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với những khó khăn từ thương chiến Mỹ-Trung (đã làm giảm đáng kể nhu cầu vận chuyển đường biển), thì cả ham muốn chính trị lẫn nguồn tài chính hiện đều không đủ để biến giấc mộng kênh đào Kra của Thái Lan trở thành hiện thực. 
#Ngẫm

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2019

ĐỪNG THÒ BÀN TAY DƠ BẨN VÀO CHÍNH TRỊ VIỆT NAM


          Với những kẻ cơ hội chính trị cùng một số tổ chức quốc tế, bị can Phạm Chí Dũng một mắt xích quan trọng trong việc gây rối loạn tình hình chính trị chống đối chính quyền Việt Nam chính vì vậy khi y vừa bị bắt, Ủy ban bảo vệ nhà báo CPJ, tổ chức phóng viên không biên giới, đã nhanh chóng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho bị can Phạm Chí Dũng và hủy bỏ mọi cáo buộc y. Ngoài ra tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế thế còn kêu gọi EU, Hoa Kỳ cần phải lên tiếng yêu cầu chính quyền Việt Nam bỏ mọi cáo buộc và trả tự do ngay lập tức cho bị can Phạm Chí Dũng. Để đạt được mục đích mưu đồ của mình, các tổ chức quốc tế đã sử dụng tấm áo mỹ miều là "dân chủ", "nhân quyền" và cái gọi là "tù nhân lương tâm" do họ tự nghĩ ra, tự xem là đúng ảnh để ra sức bao biện cho hành vi phạm pháp luật của bị can Phạm Chí Dũng. Tuy nhiên những năm qua, bị can Phạm Chí Dũng đã có rất nhiều hành động đi ngược lại lợi ích của quốc gia dân tộc. Đáng lên án nhất là việc y viết thể nguyện thư làm phát tán các tài liệu xuyên tạc để chống phá nhà nước Việt Nam, kêu gọi Nghị viện châu Âu không phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh châu Âu, Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam và liên minh châu Âu. Chỉ riêng hành động gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia dân tộc như trên cũng đã đủ khởi tố và bắt giam Phạm Chí Dũng. Nói thẳng, đây không phải là lần đầu tiên một số tổ chức quốc tế hô hào kêu gọi trả tự do cho những kẻ xuyên tạc, chống phá Nhà nước Việt Nam như bị can Phạm Chí Dũng. Trước đó cơ quan chức năng đã kịp khởi tố bắt giam Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Mẹ Nấm, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hóa, Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định…Dù cho hầu như tất cả các bị can cúi đầu nhận tội trước toà, nhưng một số tổ chức quốc tế phi chính phủ vẫn cố tình xuyên tạc chính quyền đủ điều. Phải chăng âm mưu của họ không chỉ đơn giản là việc bôi nhọ làm giảm uy tín của các cơ quan thi hành luật pháp hay chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân và chính quyền, mà đó còn là hạ uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo ra vết đen xấu xí, ngăn cản Việt Nam hội nhập, gia nhập các tổ chức kinh tế, pháp luật, quốc phòng ở trong khu vực và trên thế giới để cùng hỗ trợ cùng hợp tác và phát triển. Dù có âm mưu nào đi chăng nữa, thì việc họ lợi dụng người Việt Nam chống chính quyền Việt Nam là điều buộc phải lên án và tẩy chay, nó chẳng khác nào là diễn biến hòa bình, là chống phá nhà nước Việt Nam từ bên trong. Và những kẻ Như Phạm Chí Dũng thực chất cũng chỉ là một quân cờ của các tổ chức nước ngoài mà thôi. Đại giao đại diện bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần đã khẳng định, chứng minh ở Việt Nam không có cái gọi là "tù nhân lương tâm"; không có người vì bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như các quốc gia trên thế giới, mọi hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý nghiêm theo luật pháp. Nhưng sự thật và chứng lý đó luôn bị một số thành phần phớt lờ. Các thế lực phản động cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam vẫn thường xuyên đưa ra nhiều đánh giá phiến diện, bóp méo sự thật, có tính chất kích động, tạo cơ sở để đưa ra nhiều đòi hỏi phi lý để can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam và trực tiếp đe dọa đến an ninh của quốc gia.
            Vì vậy, điều quan trọng hơn cả là nhân dân ta phải hiểu bản chất vấn đề đoàn kết cảnh giác với những luận điệu, thậm chí tẩy chay với với những tổ chức can thiệp vào chuyện nội bộ của Việt Nam.

#AQ

NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƯỚC THÔNG TIN SAI TRÁI TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước hết là cán bộ chủ trì các cấp trong ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến hiệu quả tổ chức thực hiện ngăn chặn. Trong bối cảnh tình hình đất nước hiện nay, kẻ thù tăng cường chiến lược “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng, các tiêu cực và tệ nạn xã hội tiếp tục gia tăng, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi, sự phân hóa giai cấp, phân tầng xã hội vẫn diễn ra khá sâu sắc. Tình hình đó đang thường xuyên tác động đến tâm tư tình cảm, niềm tin, lối sống của quân nhân trong Quân đội. Thực tế đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những người có nhận thức, trách nhiệm cao mới ngăn chặn có hiệu quả.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên cần thường xuyên quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức để đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì các cấp xứng đáng là đội ngũ những người có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt, có trách nhiệm cao, nhiệt huyết và dũng khí, quyết tâm ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng. Phải bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên có tri thức về các lĩnh vực của đời sống xã hội, kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, công nghệ thông tin, 3 nhóm biểu hiện cơ bản của thông tin sai trái trên không gian mạng để tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, reo niềm tin cách mạng với con người, ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng. Nâng cao nhận thức về các dấu hiệu cảnh báo diễn biến các hiện tượng tâm lý, tư tưởng, hành vi tiêu cực có thể dẫn đến vi phạm quy chế sử dụng, phát ngôn, phát tán tài liệu mật trên internet và truy cập các trang mạng tuyên truyền thông tin sai trái. Chú ý bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội; 3 nhóm biểu hiện cơ bản của thông tin sai trái trên không gian mạng; truyền thụ kỹ năng tiến hành ngăn chặn, kinh nghiệm trong nhận diện, đấu tranh ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng. Trong điều kiện phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông hiện nay, cần quan tâm bồi dưỡng, hướng dẫn cán bộ các cấp và đảng viên biết khai thác và sử dụng thành thạo Internet phục vụ cho ngăn chặn. Có như vậy, mới bảo đảm ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng tác động đến quân nhân ở đơn vị cơ sở một cách kịp thời, hiệu quả.
Để nâng cao trách nhiệm trong ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng phải trang bị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ ở cơ sở nắm chắc bản chất thông tin sai trái trên không gian mạng, đặc biệt là 3 nhóm biểu hiện cơ bản của thông tin sai trái trên không gian mạng, làm cho họ hiểu rõ mục tiêu, phương thức ngăn chặn, giúp họ tự xác định những giải pháp phù hợp sát thực tiễn ở cơ quan, đơn vị. Để bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tổ chức các lớp, đợt bồi dưỡng về kiến thức, năng lực, kỹ năng tổ chức tiến hành; thông qua thực tiễn ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng theo từng đợt, từng sự kiện chính trị nhạy cảm của Đảng, Nhà nước, Quân đội, đơn vị; thông qua giao ban chính trị, các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác đảng, công tác chính trị để bồi dưỡng năng lực, phát huy trách nhiệm trong ngăn chặn; đồng thời thông qua tự học tập, tự nghiên cứu nâng cao trình độ, trách nhiệm chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong ngăn chặn tác động của thông tin sai trái trên không gian mạng đến quân nhân ở đơn vị cơ sở.
#AQ

Thứ Tư, 11 tháng 12, 2019

Người tị nạn Syria khát vọng trở về, hối tiếc đã biểu tình trước đây.



Ngày những người tị nạn Syria này có thể hồi hương vẫn mờ mịt. Nhiều người trong số họ hối tiếc vì từng tham gia biểu tình chống chính phủ.
Hàng triệu người Syria đang phải sống tị nạn ở nước ngoài, nhiều nhất là các nước láng giềng Arab. Đó là điều không ai trong số họ mong muốn và nhất là những người đã từng tham gia làn sóng biểu tình “Mùa xuân Arab” năm 2011 với ước mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngày trở về quê hương với họ vẫn còn mờ mịt khi tiếng súng chưa yên, nhiều khu vực, nhà cửa vẫn là các đống hoang tàn của xung đột.
Từ biểu tình hòa bình biến thành các cuộc bạo động và xung đột phe phái năm 2011 đã khiến đất nước Syria rơi vào cuộc nội chiến ác liệt. Gần 9 năm qua nhưng quốc gia Trung Đông này chưa một ngày yên tiếng súng. Chiến tranh đã biến đất nước Syria tươi đẹp bên bờ biển địa Trung Hải giờ được ví như “địa ngục trần gian”. Liên Hợp Quốc gọi cuộc khủng hoảng ở Syria là lớn nhất thế giới trong gần một phần tư thế kỷ qua. Xung đột và giao tranh đã khiến hơn 6 triệu người Syria phải đi lánh nạn ở khắp nơi trên thế giới.

Anh Mahammad Muwafiq, người dân Aleppo đang sống tại Ai Cập chia sẻ trước năm 2011, đất nước anh rất yên bình và đẹp nhưng bây giờ đang hoang tàn bởi chiến tranh. Mahammad Muwafiq cũng đã tham gia làn sóng mùa xuân năm đó và anh thấy hối tiếc khi mọi thứ đã xảy ra vượt tầm kiểm soát và ngoài sự tưởng tượng của anh cũng như các bạn trẻ Syria. “Chúng tôi không nghĩ cuộc cách mạng lại dẫn tới hậu quả như ngày hôm nay với xung đột và sự can thiệp của các nước lớn. Chúng tôi xuống đường chỉ để đề nghị có được những điều tốt đẹp hơn và cuộc sống tốt hơn, muốn đất nước trở thành nước phát triển trên thế giới. Nhưng giờ mọi nơi ở Syria không an toàn. Chiến tranh đã phá hủy Syria và để trở lại được như trước năm 2011 phải mất 10 đến 20 năm với điều kiện chiến tranh kết thúc ngay bây giờ. Tất cả người tị nạn và cả tôi không thể trở về khi đất nước chưa yên bình. Nếu được tôi ước xung đột kết thúc vào ngày mai.”
Ông Naziar một người dân từng sống ở thủ đô Damascus, năm nay 55 tuổi và ông rất tự hào về đất nước Syria từng rất tươi đẹp, yên bình và phát triển ở Trung Đông. Nhưng chiến tranh đã khiến Syria trở thành đống đổ nát và gia đình ông phải rời tới Ai Cập sinh sống. Như bao người tị nạn Syria khác sau nhiều năm tha phương, ông Naziar và gia đình cũng muốn trở về nhưng về đâu khi nhà tan cửa nát.
“Nhà của tôi ở Damascus không còn, bị phá hủy hoàn toàn. Chúng tôi làm gì có nhà để trở về sống. Chúng tôi cũng muốn trở về nhưng thời điểm này thì chưa. Tôi và gia đình sẽ trở về khi đất nước yên bình – đó là đất nước giàu đẹp”.
Như bao bạn trẻ khác anh Aiham cũng mong muốn trở về xây dựng quê hương Syria sau khi đi du học tại Ai Cập. Aiham chia sẻ sống ở đâu cũng không bằng quê hương mình bởi ở đó có gia đình và người thân. Nhưng cuộc nội chiến khiến mong ước của anh không thành. Ngày trở về Syria bên bố mẹ của Aiham như xa vời bởi tiếng súng vẫn chưa ngơi.
“Những người tị nạn Syria và cả tôi không mong muốn điều gì khác ngoài được trở về quê hương. Đất nước chúng tôi đã từng phát triển, yên bình và tươi đẹp, người dân hạnh phúc. Bây giờ người dân đã hiểu được giá trị của sự bình yên và không có những hành động ngốc ngếch như trước. Đương nhiên tôi mong muốn tình hình Syria sẽ được giải quyết và ổn định để chúng tôi có thể trở về. Đó là tất cả những gì tôi mong muốn.”
Trong ánh mắt những người tị nạn Syria vẫn lóe lên niềm tin và hy vọng ngày trở về. Họ dường như thấy tiếc nuối và ăn năn khi đã tham gia vào làn sóng biểu tình năm đó bởi hoa thơm, quả ngọt của mùa xuân chưa thấy mà chỉ là những cảnh chết chóc, hoang tàn và sự tha hương. Con đường hồi hương của họ vẫn mịt mờ bởi cuộc khủng hoảng vẫn đang tiếp diễn./.

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2019

Không thể xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam

Đại hội XII của Đảng đã xác định: Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển. Nguyên tắc trên tiếp tục được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, ngày 25-11-2019, Bộ Quốc phòng công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019.

Nói về những điểm mới trong Sách trắng lần này, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, từ chính sách "ba không" trước đây, nay có thể được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn thành "bốn không" là: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh cũng cho biết, Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung.
Tuỳ vào diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Ngay sau khi Bộ Quốc phòng công bố nguyên tắc “bốn không” kể trên, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã đăng đàn xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam. Các luồng thông tin sai lệch được các đối tượng đưa ra khiến tình hình trở nên phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của người dân.
Xét về chính sách quốc phòng, từ lâu, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chủ trương “ba không”, bao gồm: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.
Như thông tin nói trên của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, chính sách quốc phòng hiện nay được hiểu đầy đủ thành “bốn không”. Trong đó, có chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Chính sách quốc phòng nói trên là phù hợp với đường lối đối ngoại của đất nước, phù hợp với lịch sử dựng và giữ nước và tình hình thực tiễn của Việt Nam. Việc xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng của Việt Nam không phải là động thái mới.
Tuy nhiên, sau khi Sách trắng quốc phòng Việt Nam 2019 được công bố, các đối tượng lại đẩy mạnh việc chống phá, suy diễn, xuyên tạc nhiều vấn đề trong chính sách quốc phòng. Các đối tượng cho rằng chính sách “bốn không” như trên là “tự trói tay chân mình”; là “không đủ khả năng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”; là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với thực tế, đi ngược lại với xu thế toàn cầu hoá… 
Đặc biệt, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các đối tượng đã đả kích, xuyên tạc, cho rằng nếu thực hiện chính sách quốc phòng như trên thì Việt Nam sẽ không thể giữ vững chủ quyền, không thể bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đi đôi với việc phê phán, chỉ trích chính sách quốc phòng của Việt Nam, các đối tượng tìm cách hô hào, cổ suý tư tưởng phải dựa dẫm, lệ thuộc vào các nước khác, đặc biệt là các quốc gia phương Tây.
Bàn về chính sách quốc phòng của Việt Nam, chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện, đầy đủ. Về mặt lịch sử, trải qua quá trình đấu tranh dựng và giữ nước, chúng ta đã đúc kết được bài học vô cùng quý báu là thực hiện đường lối quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, toàn diện về mọi mặt của Đảng. Sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường luôn là nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi các mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, bên cạnh việc hợp tác cùng phát triển, giữa các quốc gia vẫn luôn tồn tại sự cạnh tranh với nhau. Suy cho cùng, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là vĩnh viễn. Chính sách quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc.
Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cần củng cố và phát huy tối đa sức mạnh nội tại, đồng thời tranh thủ sức mạnh thời đại. Trong đó, điều kiên quyết là sức mạnh nội lực phải đứng ở vị trí trọng tâm, không thể dựa dẫm, phụ thuộc, trông chờ vào sự cứu cánh bên ngoài.
Việc Việt Nam thực hiện chính sách không tham gia liên minh quân sự không phải là hành động “tự trói tay chân” như các đối tượng vẫn rêu rao. Thực tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của lĩnh vực quốc phòng.
Thời gian qua, lực lượng Quân đội Việt Nam đã được đầu tư, phát triển và ngày càng tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc tăng cường sức mạnh nội lực, không tham gia vào các liên minh quân sự cho thấy sự chủ động trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.
Với chính sách này, chúng ta có thể đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm chủ quyền, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đồng thời, chúng ta cũng cần hiểu rõ, việc Việt Nam không tham gia vào các liên minh quân sự không đồng nghĩa với việc chúng ta khép mình với thế giới bên ngoài.  Trong lĩnh vực quân sự, chúng ta vẫn luôn có sự giao lưu, học tập và tranh thủ sức mạnh của bạn bè quốc tế.
Mặt khác, thông qua chính sách quốc phòng có thể thấy rõ thiện chí của Việt Nam trong việc thúc đẩy hoà bình trên thế giới. Chúng ta kiên định thực hiện các chính sách không liên kết nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài mượn căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Các chính sách này hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Việc các đối tượng xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam không phải là sự “góp ý, hiến kế” mà đây chính là chiêu bài nhằm kích động; chống phá Đảng, Nhà nước, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, hiện thực hoá mưu đồ “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang. Ngoài ra, chúng ta cần xác định rõ, tất cả các liên minh quân sự đều bắt nguồn từ việc chia sẻ lợi ích. Không một quốc gia nào sẵn sàng hy sinh vì quốc gia khác.
Mục đích sâu xa khi các đối tượng kêu gọi, hướng lái Việt Nam tham gia vào các liên minh quân sự, đặc biệt là liên minh với các quốc gia phương Tây (là những nước có chế độ chính trị khác với Việt Nam) nhằm đưa Việt Nam đi vào quỹ đạo lệ thuộc, thông qua đó để tiến hành thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất xã hội của chúng ta. Nếu chúng ta không thực hiện đường lối quốc phòng độc lập, tự chủ, chính bản thân chúng ta sẽ bị chuyển hoá, lệ thuộc.
Trong trật tự thế giới đa cực hiện nay, các mối quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp. Ranh giới giữa đối tác, đối tượng tồn tại đan xen lẫn nhau; trong cùng một chủ thể có những khía cạnh là đối tác để chúng ta tranh thủ, hợp tác nhưng cũng có những khía cạnh là đối tượng để đấu tranh.
Chính vì vậy, việc nghiêng vào bất cứ phe nào, phụ thuộc vào bất cứ quốc gia nào cũng không phải là sự lựa chọn thích hợp. Chỉ có phát huy sức mạnh độc lập, tự chủ mới là cách thức tối ưu nhất để bảo vệ Tổ quốc.
#HHĐ#YHB#

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2019

Phát huy thế mạnh của tuổi trẻ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Ngày 4-12, tại Hà Nội, tiếp tục Chương trình công tác năm 2019 của Ban Chỉ đạo (BCĐ) Trung ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN), Đoàn Công tác BCĐ Trung ương về PCTN do đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Ủy viên BCĐ làm trưởng đoàn đã có cuộc làm việc với Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Tham dự cuộc làm việc có các đồng chí: Lê Quốc Phong, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương ( TƯ) Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Ngô Sách Thực, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam cùng đại diện lãnh đạo Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các thành viên Đoàn công tác.
Trước đó, Đoàn công tác BCĐ Trung ương về PCTN đã làm việc với 7 đơn vị trực thuộc TƯ Đoàn. Từ kết quả làm việc, Đoàn công tác đã xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra, đôn đốc công tác PCTN tại TƯ Đoàn trong năm 2019.

Theo báo cáo, thời gian qua, xác định công tác PCTN là nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng cơ quan, xây dựng đội ngũ cán bộ ĐVTN trong sạch, vững mạnh, vì vậy ngay từ đầu năm 2019, trong nội dung duyệt kế hoạch, chương trình công tác, Ban Bí thư TƯ Đoàn đã quán triệt thực hiện công tác PCTN đến từng lãnh đạo và cán bộ, viên chức, người lao động. 

Việc triển khai các Chỉ thị, thông báo, kết luận của Đảng, Nhà nước, Đoàn liên quan đến công tác PCTN được Đảng ủy, Ban Bí thư, Thủ trưởng cơ quan TƯ Đoàn chỉ đạo các cấp ủy, các ban, đơn vị quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc. 
Đặc biệt là thực hiện công khai, minh bạch về chính sách, quy trình, thủ tục giải quyết công việc; công khai việc quản lý, sửa dụng ngân sách, tài sản, phân bổ dự toán, phân cấp nguồn thu, công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu ngân sách hợp lý; việc kiểm soát tài sản, thu nhập được công khai, minh bạch…Qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức, người lao động biết để cùng giám sát thực hiện. Các chương trình, dự án xây dựng do TƯ Đoàn làm chủ đầu tư đều được thực hiện theo đúng quy định, không xảy ra tham nhũng.

Thẳng thắn nhìn nhận, vẫn còn một số cán bộ, đoàn viên thanh niên (ĐVTN) thiếu tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, Bí thư thứ nhất Trung ương đoàn Lê Quốc Phong cho rằng trong thời gian tới, cần khắc phục những hạn chế đó để giới trẻ mạnh dạn đấu tranh PCTN. Trong đó công tác tuyên truyền cần đặc biệt coi trọng để khơi dậy tinh thần đấu tranh PCTN trong thanh niên và coi đây là quá trình rèn luyện nhân cách để khi trưởng thành mỗi ĐVTN sẽ không vướng vào tham nhũng, củng cố niềm tin của thanh niên vào sự lãnh đạo của Đảng.Tuy nhiên báo cáo cũng cho rằng, hiện nay, trong hệ thống đoàn thể, nghiệp vụ trực thuộc có lúc, có nơi nghiệp vụ quản lý, chuyên môn tài chính còn hạn chế, chính vì vậy việc xử lý thu chi chưa đảm bảo nguyên tắc, mặc dù số tiền chi ra rất nhỏ, bởi vậy cần thường xuyên quan tâm công tác quản lý ngân sách, đảm bảo công khai, minh bạch, tránh xảy ra sai phạm.
Ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng của TƯ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong thời gian qua đối với việc triển khai các phong trào, chương trình hành động cũng như công tác PCTN với nhiều hình thức sôi nổi, hiệu quả, thiết thực, đồng chí Trần Thanh Mẫn khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn xác định thanh niên là lực lượng quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Để tiếp tục phát huy những kết quả này, đồng chí Trần Thanh Mẫn đề nghị trong thời gian tới, Ban Bí thư TƯ Đoàn cần nhìn nhận sâu sắc những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai, phát hiện những hiện tượng tham nhũng, xác định rõ đâu là nguyên nhân chủ quan, khách quan và đưa ra giải pháp thực hiện cụ thể để huy động đông đảo lực lượng thanh niên tham gia.

Đề cập đến công tác cán bộ, đồng chí Trần Thanh Mẫn cho rằng cần phải quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, hoài bão, ý thức chấp hành pháp luật cho thế hệ trẻ để họ luôn tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước, xung kích, tình nguyện, tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, cần làm tốt hơn nữa công tác phòng ngừa, kiểm tra, giám sát, thanh tra và tự kiểm tra, giám sát; nhất là ở các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng.Bên cạnh đó, Ban Bí thư TƯ Đoàn cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu rộng trong đội ngũ ĐVTN về chủ trương của Đảng, các Kết luận, Chỉ thị của Ban Bí thư; của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng BCĐ Trung ương về PCTN. Đồng thời, cần xây dựng kế hoạch triển khai dài hạn từ Trung ương tới địa phương, các giải pháp đề ra phải tạo sức lan tỏa rộng rãi đến ĐVTN.
“Hướng tới Đại hội Đảng lần thứ XIII, các cấp cán bộ Đoàn cần chuẩn bị, xây dựng, giới thiệu những người có uy tín, năng lực, trách nhiệm xứng đáng vào cấp ủy. Chỉ khi tổ chức Đoàn trong sạch, vững mạnh thì mới vận động được đoàn viên, thanh niên..”, Đồng chí Trần Thanh Mẫn kỳ vọng.
#YHB#HHĐ#

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...