Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

Hãy tôn trọng quyền công dân của ông Thích Minh Tuệ

[CAND] Thời gian gần đây, hiện tượng liên quan ông Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) tiếp tục gây ồn ào trên mạng xã hội. Mặc dù những thông tin lợi dụng hiện tượng này để phỉ báng, công kích tu sĩ Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã giảm nhưng những quan điểm về tôn giáo lạ, mang màu sắc mê tín dị đoan lại xuất hiện, tác động làm ảnh hưởng niềm tin của nhân dân với Giáo hội. Các đối tượng chống đối chính trị “mượn gió bẻ măng” tiếp tục viết bài công kích nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.

Thực tế cho thấy, từ khi hiện tượng liên quan ông Thích Minh Tuệ được các youtuber, tiktoker phát tán rộng rãi trên không gian mạng đã tác động đa chiều tới người dân, dư luận xã hội. Xét dưới phương diện tích cực, ông Lê Anh Tú đã lan tỏa được những nét đẹp của một người “con của Phật”, tử bỏ “tham – sân – si” để sống một cuộc đời an lạc. Hình ảnh một người bộ hành lời lẽ khiêm nhường, tự xưng mình là “con” với tất cả mọi người, từ bỏ mọi điều kiện vật chất thế gian để “tập học theo lời Phật dạy” đã tạo được thiện cảm với nhiều người dân.

Tuy nhiên, những biến tướng từ hiện tượng Thích Minh Tuệ cũng đã tạo nên làn sóng “truyền thông bẩn” hướng tới công kích, hạ uy tín Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thậm chí các đối tượng xấu còn bẻ lái, hướng mũi nhọn sang chống phá chế độ, bôi nhọ các quan chức của Việt Nam có mối quan hệ với các nhà sư thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đã xảy ra sự cãi vã, tranh luận không hồi kết giữa các nhóm người không cùng quan điểm dẫn tới xung đột, mâu thuẫn trên không gian mạng và mâu thuẫn cả ngoài đời thực. Điều này không chỉ tác động tiêu cực đến an ninh, trật tự mà còn xuất hiện các biến tướng của hoạt động mê tín dị đoan, ảnh hưởng đến đức tin của Phật giáo chân chính.

Đây là một thực tế đáng buồn trong xã hội hiện đại, mặc dù đời sống ngày càng phát triển về vật chất, trình độ dân trí, nhận thức của người dân được nâng cao nhưng nhiều người vẫn không thoát được “bóng tối” của u mê, khát khao tìm kiếm những điều huyền bí hư ảo trong tâm linh. Và trong cơn khát này, nhiều người đã vô tình hay cố ý biến những người tu hành chân chính thành đối tượng tôn sùng một cách mù quáng.

Ông Thích Minh Tuệ viết đơn đề nghị mọi người không tự ý đưa hình ảnh của ông lên mạng xã hội.

Trong nhiều phát ngôn, ông Lê Anh Tú khẳng định “tôi không phải là sư, thầy hay thần thánh, Phật gì cả”. Ông khẳng định bản thân mình chỉ đơn thuần là một người đang học theo lời Phật dạy và xứng đáng được tôn trọng quyền được sống một cuộc sống bình yên. Thế nhưng, dường như những lời chân thành ấy chẳng thấm vào đâu so với cơn khát tâm linh, thần thánh của một bộ phận người tự nhận mình là sùng đạo. Họ tôn sùng, thần thánh hóa một cách quá mức kiểm soát, rồi tự cho mình cái quyền được làm phiền người khác, bất chấp mọi đề nghị, mọi lời từ chối. Đây không còn là sự tôn kính nữa mà đã trở thành một dạng cuồng tín đáng báo động.

Đó là những biến tướng nguy hiểm không khó nhận thấy từ những ồn ào liên quan đến hiện tượng mạng Thích Minh Tuệ. Nhận thức được vấn đề trên, vừa qua ông Lê Anh Tú và gia đình đã có đơn gửi cơ quan chức năng với mong muốn mọi người không quay phim, chụp ảnh và đưa hình ảnh của cá nhân ông lên mạng xã hội vì ảnh hưởng tới quá trình tu học. Theo đơn của ông Lê Anh Tú, ông đề nghị mọi người không tụ tập đông người để đảm bảo an toàn giao thông, không phát tán hình ảnh của ông lên mạng xã hội khi chưa được phép. Thời gian qua, việc tụ tập, “bao vây” bám riết lấy ông ở bất cứ đâu, tuỳ ý quay phim, tung hình ảnh lên mạng Internet đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tu tập của ông. Ông mong muốn cơ quan chức năng xử lý đối với người tự ý đưa hình ảnh, thông tin cá nhân của ông lên mạng xã hội.

Có thể thấy, việc ông Lê Anh Tú phải làm đơn gửi đến cơ quan chức năng như một tiếng kêu cứu, cho thấy người đàn ông này đã mệt mỏi trong việc khuyên giải những người hiếu kỳ, đặc biệt là các youtuber, tiktoker đeo bám, làm phiền 24/24h. Vì ông Tú là người hiểu rõ hơn ai hết khi những phiền toái này đeo bám hàng ngày chính là rào cản trên con đường tu tập của ông. Do đó, trong đơn gửi cơ quan chức năng và nhiều lần phát ngôn, ông Tú khẳng định mình không phải là một vị thánh sống để mọi người chiêm ngưỡng, làm lễ vì đơn giản ông đang tu học để đạt mong muốn có thể thấu hiểu những lời dạy của Đức Phật, kiên trì tu tập đạt tới cảnh giới của “Niết bàn”.

Về tín ngưỡng Phật giáo, nếu như hàng ngày, hàng giờ vẫn tiếp tục có nhiều người đeo bám ông Tú, gây mất an ninh, trật tự, tạo phiền toái cho xã hội như vậy sẽ khiến cho ông cảm thấy bất an, không có không gian riêng để “thiền định” thì sẽ khó khăn trong việc học những triết lý của Phật giáo nguyên thủy. Theo đó, những người tự nhận mình yêu mến Thích Minh Tuệ lại đang trực tiếp phá hoại con đường tu hành chân chính của người đàn ông này.

Nhìn nhận các vấn đề xung quanh hiện tượng Thích Minh Tuệ dưới góc độ pháp luật hiện hành, việc ông Lê Anh Tú không phải nhà tu hành chuyên nghiệp, chưa có thể nhân hợp pháp thì mọi hoạt động truyền bá đạo hay việc xây dựng các địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo theo dạng tự phát là không đảm bảo theo quy định pháp luật Việt Nam. Mặc dù chính sách của Đảng ta và hệ thống pháp luật về tôn giáo luôn tôn trọng và đảm bảo quyền do tín ngưỡng tôn giáo của công dân song mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ pháp luật.

Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ đều được đảm bảo. Ngược lại, mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống phá chính sách của Đảng, Nhà nước hay gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc đều phải bị xử lý theo pháp luật. Những ai bày tỏ “đức tin” về ông Thích Minh Tuệ hãy nhớ và tôn trọng điều ông nói rằng, ông không phải là một vị thánh sống để mọi người chiêm ngưỡng, ông cũng không phải là phương tiện để ai đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh của mình vì đơn thuần ông chỉ là một người đang học theo lời Phật dạy và xứng đáng được tôn trọng quyền được sống một cuộc sống bình yên.

Vì vậy, hãy tôn trọng những lời đề nghị của ông trong đơn gửi chính quyền địa phương cũng như những điều ông từng chia sẻ về quá trình tu tập của mình. Qua đó góp phần ngăn chặn những hệ lụy, những tác động tiêu cực đến tình hình an ninh, trật tự và cũng là cách để giúp ông Lê Anh Tú có thể đạt được mong muốn, nguyện vọng thực hành tu tập 13 hạnh đầu đà theo lời Phật dạy.

Phạm Duy

Lại diễn tấu hài bình chọn "giải thưởng nhân quyền"

Hôm 23/11, trang web của tổ chức khủng bố, phản động Việt Tân đưa cái gọi là "giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng" với mục tiêu mỹ miều "công lý cho dân tộc, công bằng cho mọi người"!

Bài viết nêu rằng, vì tinh thần đấu tranh cho dân sinh, dân quyền của "nhà hoạt động Lê Đình Lượng", từ năm 2018, Việt Tân đã thiết lập giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng "nhằm nêu cao sự hy sinh và những hoạt động của những cá nhân hay tổ chức đang miệt mài tranh đấu cho nhân quyền của dân tộc Việt Nam". Với chủ đề "công lý cho dân tộc, công bằng cho mọi người", Việt Tân muốn "đề cao sự can đảm của các nhà hoạt động miệt mài tranh đấu chống áp bức, chống phân biệt đối xử và thúc đẩy bình đẳng trong xã hội nhằm mang lại công lý và công bằng cho mọi người dân Việt Nam".

Bài viết thông tin rằng, tên của cá nhân hay tổ chức được ban giám khảo của giải thưởng này tuyển chọn sẽ công bố vào đầu tháng 12 và giải thưởng sẽ tổ chức vào ngày 14/12/2024 tại Toronto, Canada.

Chiêu trò tung hô giải thưởng với tên gọi nhân quyền, đưa ra những mục đích tỏ ra cao cả kiểu "công lý cho dân tộc, công bằng cho mọi người", "chống phân biệt đối xử và thúc đẩy bình đẳng trong xã hội" hẳn chỉ có thể loè bịp những ai nhẹ dạ, lần đầu tiếp cận thông tin của Việt Tân. Còn về bản chất, sự lặp đi lặp lại mang tính "bổn cũ soạn lại" qua các năm thì dù tổ chức này có đưa ra câu từ lấp lánh đến đâu cũng không thể che đậy bản chất dối trá, bịp bợm. Thực chất, đó chỉ là trò tung hứng của một nhóm cá nhân xoay quanh những đối tượng chống phá Nhà nước Việt Nam đã bị bắt, xử lý hình sự thì dù có đội lốt bằng tên gọi hào nhoáng nào đi nữa cũng không thể loè bịp với đa số người có hiểu biết, nhận thức.

Đã thành lệ, cứ dịp cuối năm, Việt Tân và một số tổ chức chống phá hải ngoại lại vẽ trò bình chọn và trao "giải thưởng nhân quyền". Để gây chú ý, các đối tượng không ngừng tung hô giải thưởng "có giá trị" cả vật chất lẫn tinh thần, sau đó tự lập "hội đồng" đưa ra các ứng viên nhận giải. Những ứng viên này là những cái tên nhẵn mặt trên mạng, có hồ sơ phạm pháp, chống phá Nhà nước Việt Nam, nhiều thành phần bất hảo, từng chấp hành án phạt tù, nay lại chứng nào tật nấy, tiếp tục hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, chống chính quyền nhân dân.

Để cổ suý cho giải thưởng, tổ chức khủng bố Việt Tân rêu rao: "Để xiển dương (biểu dương) tinh thần đấu tranh cho dân sinh dân quyền của nhà hoạt động Lê Đình Lượng, Đảng Việt Tân đã thiết lập Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng"… Sau thời gian tung hứng, những ứng viên được nêu tên với những mỹ từ hài hước, rằng "được bình chọn cao, tín nhiệm lớn".

Giải thưởng nhân quyền vốn rất thiêng liêng, vì mục đích cao cả, dành cho những người có đóng góp lớn vì sự tiến bộ trong bảo đảm quyền con người ở các quốc gia, vùng, lãnh thổ hay ở phạm vi khu vực và thế giới. Thế nhưng, điều kỳ quặc là lâu nay, một số tổ chức nhân danh "bảo vệ quyền con người" lại làm điều vừa trái đạo lý, vừa trái pháp lý khi dựng lên cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" để trao cho những kẻ phá hoại xã hội, phá hoại cuộc sống của người dân ở các nước mà kẻ đó sinh ra hoặc đang sinh sống, trú ngụ. Cứ nhìn những người được các tổ chức này trao giải, nhiều người không nhịn được cười, không hiểu là họ đang diễn hề hay làm trò kỳ quặc gì.

Riêng với "giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng", đây là chiêu trò tấu hài mà họ diễn nhiều năm nay. Lê Đình Lượng - một đối tượng phạm tội bị TAND cấp cao y án 20 năm tù về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Việt Tân thường tô vẽ cho giải thưởng này với những ngôn từ khôi hài: "giải thưởng Nhân quyền Lê Đình Lượng sẽ là một nỗ lực đóng góp cụ thể vào công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và tự do của dân tộc Việt Nam"!

Lâu nay, Việt Tân và các tổ chức, hội nhóm phản động vẫn bấu víu "giải thưởng nhân quyền", lập ra vô số tên gọi khác nhau mà không hiểu rằng, trò hề đó chính là sự xúc phạm nghiêm trọng đến giá trị nhân quyền. Có thể kể tới các giải thưởng mà các tổ chức này đưa ra như: "giải thưởng Hellman/Hammet" của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), "giải thưởng Stephanus" của Hiệp hội quốc tế nhân quyền tại Ðức; "giải thưởng quốc tế Gruber" của Nghiệp đoàn luật sư quốc tế, rồi "giải nhân quyền Gwangju"...

Bên cạnh đó, một số giải thưởng và danh hiệu như "Công dân mạng" của Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF); "Phụ nữ tiêu biểu về bảo vệ quyền tự do ngôn luận" của tổ chức Tự do ngôn luận quốc tế (IFEX) có trụ sở tại Canada; giải "Phụ nữ can đảm nhất thế giới" của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ... Ngoài ra, hội nhóm lập ra "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" tại Mỹ còn công bố trao giải thưởng "nhân quyền Việt Nam" cho những đối tượng như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân…

Vậy, mưu đồ của "giải thưởng nhân quyền" trên là gì? Với  những đối tượng càng chống phá Nhà nước, chống phá nhân dân Việt Nam thì lại càng được "lên bục nhận thưởng" với "hội đồng giám khảo" là những thành phần bất hảo thì động cơ, mưu đồ này không khó để nhận biết. Thông qua giải thưởng, các tổ chức này vừa tạo dư luận, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước, đồng thời tạo cớ để khuếch trương thanh thế, từ đó để nhận được sự hỗ trợ tài chính của các tổ chức đứng sau.

Hãy điểm danh những đối tượng "lên bục nhận thưởng" trước đây như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Văn Hải (blogger “Ðiếu cày"), Phan Thanh Hải (blogger "Anh ba Sài Gòn"), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Hoàng Đức Bình, Trần Thị Nga, Phạm Đoan Trang... Rõ ràng, việc cổ suý, trao giải cho những đối tượng chống Nhà nước, chống nhân dân chính là một chiêu bài bịp bợm của những tổ chức thù địch với Việt Nam. Họ cố gắng tô vẽ cho các đối tượng này qua các danh hão như "nhà báo tự do", "nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền", "tù nhân lương tâm", "công dân yêu nước"... nhưng họ không thể che đậy được ý đồ chống phá Ðảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam, đây là hành vi vừa lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, nhân quyền để tiến hành hoạt động nhằm gây bất ổn chính trị ở trong nước.

Cuối năm, Việt Tân lại vẽ chiêu trò "giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng".

Xét đến cùng thì việc trao các loại "giải thưởng nhân quyền" cho các đối tượng đã đề cập ở trên chính là một thủ đoạn, một yếu tố cấu thành của kịch bản trong chiến lược "diễn biến hoà bình", can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Điều đáng nói là những đối tượng được xướng tên như vậy không biết đấy là điều hổ thẹn, vẫn tỏ ý đắc chí, như thể làm được công lao gì ghê gớm lắm. Phản dân, hại nước, thực sự thì những người nhận giải thưởng đó có khác gì con rối, trò chơi, bị người khác dùng làm trò tiêu khiển mà không ý thức được.

Cần thấy rằng, trong những năm qua, Việt Nam đã tập trung vào việc cải cách pháp luật và nâng cao nhận thức xã hội nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ quyền con người và phòng, chống tra tấn. Báo cáo quốc gia lần thứ hai về thực thi "Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người" (CAT) đã minh chứng cho những tiến bộ quan trọng mà Việt Nam đã đạt được trong lĩnh vực này.

Báo cáo được Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang phê duyệt vào tháng 2/2024 và được giới thiệu tại hội thảo quốc tế do Cục Đối ngoại và Cục Pháp chế và Cải cách hành chính, tư pháp, Bộ Công an phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam tổ chức vào ngày 14/7/2024. Việc giới thiệu báo cáo không chỉ nhằm cung cấp thông tin về những tiến bộ đã đạt được mà còn thể hiện sự minh bạch và cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người.

Báo cáo này đánh giá toàn diện những nỗ lực của Việt Nam trong việc phòng, chống tra tấn và bảo vệ quyền con người, bao gồm cả việc cải thiện hệ thống pháp luật, tăng cường giám sát và triển khai các hoạt động tuyên truyền, đào tạo. Những cải cách này không chỉ mang tính pháp lý mà còn thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc xây dựng một xã hội minh bạch và công bằng.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc (LHQ) António Guterres đánh giá cao đối với những cải cách pháp luật của Việt Nam, đồng thời khẳng định rằng, các biện pháp của Việt Nam đã góp phần nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia này. Cao ủy nhân quyền LHQ Michelle Bachelet cũng ghi nhận nỗ lực của Việt Nam trong việc đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ thực thi pháp luật, nhằm bảo vệ quyền con người một cách hiệu quả hơn.

Đại diện của Tổ chức Ân xá quốc tế, bà Agnes Callamard thì khen ngợi tính minh bạch trong báo cáo và các biện pháp cải thiện tình hình thực thi Công ước CAT. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách pháp luật nhằm tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch và công bằng hơn. Hơn 56 luật và văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để bảo vệ quyền con người và phòng, chống tra tấn, trong đó có Luật Thi hành án hình sự năm 2019 và Luật Cư trú năm 2020. Những cải cách này không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi tra tấn mà còn tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc để bảo vệ các quyền cơ bản của con người.

Các tổ chức quốc tế như Liên minh châu Âu (EU) đã đánh giá cao những cải cách pháp luật và cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện Công ước CAT. Đại sứ EU tại Việt Nam Giorgio Aliberti đã nhấn mạnh rằng các nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của Việt Nam là một bước tiến quan trọng. Điều này giúp Việt Nam không chỉ cải thiện tình hình nhân quyền trong nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Đó là thực tế khách quan, được các tổ chức có uy tín của quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Thế nên việc giở trò trao giải thưởng nhân quyền cho các đối tượng phạm pháp, lại vin cớ "ngày quốc tế về nhân quyền" là sự xúc phạm đến giá trị của Tuyên ngôn, đến lương tri nhân loại. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền - một Tuyên ngôn ra đời và ảnh hưởng tới nhân loại mà họ lại đưa ra làm trò đùa giỡn, một Tuyên ngôn có được với bao nỗ lực của các bậc tiền nhân cũng như sự hy sinh xương máu của con người, ở đâu cũng phải tôn trọng, phải gìn giữ, bảo vệ, vậy mà họ lại ngang nhiên bôi vẽ, chà đạp để thực hiện ý đồ thấp hèn?

Nguyễn Thành

Quan điểm của Việt Nam trước việc một số nước liên tục diễn tập ở Biển Đông

VOV.VN - Việt Nam đề nghị các hoạt động của các bên, các nước liên quan cần phải phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, đồng thời phải đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, tự do hàng không và hàng hải ở Biển Đông.

Ngày 11/4, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam trước việc gần đây một số nước liên tục có các hoạt động diễn tập ở Biển Đông, Phó phát ngôn Đoàn Khắc Việt nêu rõ:

“Biển Đông là một trong những vùng biển rất quan trọng trong khu vực. Do đó, việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, tự do hàng không và hàng hải trong khu vực Biển Đông, phù hợp với các công ước quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là mục tiêu, lợi ích và trách nhiệm chung của tất cả các quốc gia.

Việt Nam đề nghị các hoạt động của các bên, các nước liên quan cần phải phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, đồng thời phải đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu nêu trên”.

Việt Nam kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp với luật quốc tế ở Biển Đông

VOV.VN - Việt Nam tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển trong việc ban hành nội luật và các quy định liên quan đến biển phù hợp với UNCLOS 1982; đồng thời, Việt Nam cũng đề nghị các quốc gia khác tôn trọng đầy đủ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với UNCLOS 1982.

Về thông tin Philippines hôm 8/11 thông qua đạo luật Vùng biển, đạo luật Đường biển của quần đảo và việc Trung Quốc công bố thông báo tên gọi một phần các đảo, bãi đá gồm 64 thực thể ở Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 21/11 nhấn mạnh, Việt Nam tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển trong việc ban hành nội luật và các quy định liên quan đến biển phù hợp với UNCLOS 1982.

Người phát ngôn Phạm Thu Hằng nói: “Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS 1982)”.

Theo bà Phạm Thu Hằng, Việt Nam tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển trong việc ban hành nội luật và các quy định liên quan đến biển phù hợp với UNCLOS 1982; đồng thời, Việt Nam cũng đề nghị các quốc gia khác tôn trọng đầy đủ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với UNCLOS 1982.

“Việt Nam kiên quyết, kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982, để thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích chính đáng trên các vùng biển của mình”, bà Phạm Thu Hằng nêu rõ.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết thêm, Việt Nam sẵn sàng cùng các bên giải quyết các tranh chấp bất đồng bằng biện pháp hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.

Campuchia coi trọng hợp tác quốc phòng với Việt Nam

VOV.VN - Campuchia coi trọng thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Việt Nam, đó là khẳng định của Thủ tướng Campuchia Hun Manet trong cuộc gặp Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Chiều 24/11, tại Phnom Penh, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã tới chào xã giao Thủ tướng Campuchia Hun Manet nhân dịp dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam thăm chính thức Vương quốc Campuchia, tham dự cuộc gặp giữa 3 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam - Lào - Campuchia và chứng kiến diễn tập cứu hộ - cứu nạn chung giữa quân đội 3 nước. 

Đại tướng Phan Văn Giang chúc mừng Campuchia đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP); bày tỏ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Campuchia, đứng đầu là Chủ tịch Hun Sen, cùng sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Hun Manet, Campuchia sẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong thời gian tới.

Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho việc không ngừng củng cố, phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài với Campuchia; luôn dành sự ủng hộ cao nhất với CPP, ủng hộ một Campuchia độc lập, hòa bình, phát triển và ngày càng đóng vai trò to lớn hơn trên trường quốc tế.

Về phần mình, Thủ tướng Hun Manet  đánh giá cao về mối quan hệ hai nước Campuchia- Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển trên tất cả các lĩnh vực; cảm ơn sâu sắc Việt Nam luôn ủng hộ, giúp đỡ Campuchia trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày nay; khẳng định, Campuchia sẽ cùng với Việt Nam bảo vệ, giữ gìn, vun đắp cho mối quan hệ giữa hai nước tiếp tục phát triển lên tầm cao mới và truyền tiếp cho các thế hệ mai sau.

Đại tướng Phan Văn Giang thông báo với Thủ tướng Hun Manet kết quả cuộc hội đàm trước đó cùng ngày với Đại tướng Tea Seiha, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia. Theo đó, hai bên đã đánh giá kết quả hợp tác quốc phòng song phương thời gian qua, và ký Nghị định thư hợp tác quốc phòng giai đoạn 2025-2029 và Kế hoạch hợp tác năm 2025. Đại tướng Phan Văn Giang mong muốn Thủ tướng Hun Manet  quan tâm, ủng hộ, chỉ đạo các cơ quan chức năng tạo điều kiện, phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng hai nước để triển khai toàn diện, hiệu quả, thực chất các nội dung hợp tác quốc phòng.

Đánh giá cao kết quả hội đàm, Thủ tướng Hun Manet nhấn mạnh hợp tác quốc phòng Campuchia - Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, thực chất, tiếp tục củng cố vị thế là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ song phương. Thủ tướng Hun Manet khẳng định Campuchia coi trọng thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Việt Nam.

Thói dối trá như một thứ vi trùng dịch hạch cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội

Sự dối trá trước đây chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, chủ yếu thuộc về đạo đức cá nhân, mà bây giờ đã lan rộng ra toàn xã hội, xuất hiện ở cả những lĩnh vực vốn được coi là nghiêm cẩn, thiêng liêng như thanh tra, tòa án, kiểm sát, hải quan, cảnh sát, nhà trường, tôn giáo...

Thói gian dối cũng không còn là hành vi của những cá nhân riêng lẻ, nhất thời mà có tổ chức, có dự mưu, không chỉ ở hạng thất phu, công chức cấp thấp mà ở cả những cấp cao giữ vai trò rường cột của một ngành, một địa phương, khiến tâm lý xã hội hoang mang, gây ra sự mất hướng của không ít người, làm băng hoại đạo đức xã hội, gây nguy hại đến thể chế chính trị quốc gia.                                                                               

1. Trong kho tàng truyện dân gian của bất cứ dân tộc nào cũng tồn tại những câu chuyện rất hay, rất đời về tật nói dối của tầng lớp chúng sinh. Xét về cấp độ, thói giả dối thể hiện các mức độ khác nhau về một hành vi, một thái độ không trung thực, một tập tính đã trở thành thuộc tính của con người và xã hội.

Như vậy có thể nói, con người ở thời nào cũng mắc phải những tật xấu này và ở thời nào người ta cũng phải rất vất vả để loại trừ nó ra khỏi đời sống, làm cho môi trường sống lành mạnh hơn. Dù không muốn, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, cuộc đấu tranh diệt trừ sự giả dối, thói gian dối như một căn bệnh xã hội là một cuộc đấu tranh lâu dài, song hành cùng với sự tồn tại của con người.

Tuy vậy, có những hoàn cảnh người ta buộc lòng phải nói tránh đi một sự thật không nên nói và lời nói dối lúc ấy không mang nghĩa xấu. Có một câu chuyện làm không ít người rơi nước mắt bởi “lời nói dối cao thượng”. Chuyện kể về một người lính ở chiến trường trở về sau chiến tranh và cưới người con gái anh yêu. Họ hạnh phúc tuy sống trong thiếu thốn. Chị sinh một bé gái, nhưng do chất độc dioxin anh nhiễm từ ngày ở chiến trường nên cháu bé bị thiểu năng. Do đời sống khó khăn và có những suy nghĩ không đúng, chị bỏ anh cùng đứa con tật nguyền để đi theo người khác. Anh phải nói dối con là mẹ đi công tác xa và lâu. Đứa bé lớn dần và tuy ý thức không bằng người song nó lờ mờ hiểu mẹ đã bỏ hai bố con.

Một hôm, anh liên lạc với chị nói là anh sắp đi công tác mấy tháng, nhờ chị trông con gái một thời gian vì con gái đã đến tuổi trưởng thành, rất cần mẹ chăm sóc. Không còn cách nào khác, chị phải nhận trông con. Sống với mẹ nhưng đứa con luôn nhớ cha, chỉ mong muốn được về nhà. Rồi một lần tỉnh dậy trong đêm, chị nghe thấy tiếng dương cầm ở phòng khách. Chị xuống, thấy con vừa đàn vừa khóc và đến lúc đó chị mới biết sự thật: Trước khi gửi con cho chị, anh đã bị ung thư giai đoạn cuối. Anh không muốn để con chứng kiến lúc mình ra đi và muốn chị sẽ chăm lo cho đứa bé khi anh không còn. Lời nói dối cùng sự ra đi mãi mãi của anh-thực ra là sự hy sinh tất cả vì con và tình cha con của họ đã thức tỉnh người đàn bà.

Về hình thức, đây là một hành vi sai sự thật, nhưng nó không xấu và không gây hại. Trái lại, nó tránh đẩy người khác vào hoàn cảnh khó xử và cũng không làm tổn thương người khác.

Còn trong nhiều trường hợp khác, sự gian dối bao giờ cũng mang nghĩa xấu, nó làm xói mòn lòng tin và đạo đức xã hội.

2. Về bản chất, sự giả dối, thói gian dối khi đã trở thành một căn bệnh xã hội là một điều xấu xa, không gì có thể biện minh. Hành vi không thật thà của một cá nhân nào đó, tùy theo mức độ ảnh hưởng của nó đến xã hội, bị lên án theo các mức độ khác nhau nhưng chủ yếu là từ góc nhìn đạo đức.

Ở bất kỳ thể chế nào, đạo đức bao giờ cũng là hệ thống những nguyên tắc ứng xử được pháp luật bảo hộ, nhưng về cơ bản, nó được tạo ra như những chuẩn mực xã hội để điều tiết các quan hệ và răn đe, đề phòng, phê phán cái xấu, sự dối trá chủ yếu từ góc nhìn đạo đức. Nó lệch chuẩn, gây hại cho xã hội, nhưng chưa bị khép vào các tội hình sự. Sự phê phán, lên án, dù ở mức gay gắt nhất, cũng chỉ như sự sửa sai những hiện tượng lệch chuẩn, đi ra ngoài quỹ đạo ứng xử của số đông.

Quan sát căn bệnh dối trá đang lộng hành trong xã hội ta hiện nay, có thể thấy rằng trong khoảng vài thập niên gần đây, nhất là từ khi Nhà nước thực hiện "mở cửa", xã hội dần dần chuyển động theo “cơ chế thị trường” ở cả các lĩnh vực ngoài kinh tế. Nói chính xác hơn, cơ chế thị trường đã tác động đến tận tế bào xã hội, làm thay đổi cả những yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần. Sự đan xen giữa các yếu tố tốt-xấu, đúng-sai, chân thật-giả dối... tạo nên những lẫn lộn cả trong nhận thức và đánh giá. Từ đó, nền tảng tinh thần xã hội có những chuyển động mạnh, những rạn nứt mới trong quan hệ giữa người với người ngày một lộ rõ, nhiều chuẩn mực xã hội truyền thống bị lung lay trước áp lực của lối sống thực dụng và mang tính cá nhân chủ nghĩa nhiều hơn.

Thói dối trá như một thứ vi trùng dịch hạch cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội
Ảnh minh họa: Báo Quân đội nhân dân 

Sự dối trá trước đây chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, chủ yếu thuộc về đạo đức cá nhân, mà bây giờ lại lan rộng ra toàn xã hội, xuất hiện ở cả những lĩnh vực vốn được coi là nghiêm cẩn, thiêng liêng như thanh tra, tòa án, kiểm sát, hải quan, cảnh sát, nhà trường, tôn giáo... Thói gian dối cũng không còn là hành vi của những cá nhân riêng lẻ, nhất thời mà có tổ chức, có dự mưu, không chỉ ở hạng thất phu, công chức cấp thấp mà ở cả những cấp cao giữ vai trò rường cột của một ngành, một địa phương, khiến tâm lý xã hội hoang mang, dẫn đến sự mất hướng của không ít người, làm băng hoại đạo đức xã hội, gây nguy hại đến thể chế chính trị quốc gia.

Điều nguy hại hơn là hiện tượng dối trá vốn là một hành vi vô đạo đức, đáng bị lên án, bất thường đã dần trở nên “bình thường” trong mắt nhiều người. Sự giả dối nguy hiểm hơn vì nó lan đến cả nhà trường, đến những người trẻ (chạy điểm, mua điểm, chạy đua thành tích, bằng cấp giả)... làm mục ruỗng xã hội. Người giả dối có địa vị xã hội cao sẽ ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô, có vai trò rất lớn trong tổ chức thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước, nhân dân giao cho như bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh. Sự dối trá về bản chất gắn liền với lợi ích nên nó như là tiền đề đẻ ra tham nhũng, dối trá để tham nhũng, dối trá trong suốt quá trình để có địa vị cao hơn, quyền lực nhiều hơn, để có điều kiện tham nhũng lớn hơn.

Có thể nói chưa bao giờ tình trạng dối trá và tham nhũng lại gắn với nhau ở tất cả các mức độ, tinh vi và xảo trá đến thế, gây hại cho xã hội đến thế. Nhiều vấn đề được phanh phui, xử lý trong cuộc chiến chống tham nhũng thời gian qua đã đem lại những tin tưởng nhất định của xã hội vào cơ quan công quyền, nhưng quá nhiều vụ tham nhũng "khủng" đang gây mất lòng tin của xã hội, bởi không phải sự tham nhũng diễn ra trong một ngày mà có cả quá trình, có những nhóm lợi ích đã có dự mưu, tổ chức, thực hiện rất nhiều hành vi dối trá từ thấp lên cao. Hàng loạt lãnh đạo nhiều địa phương, bộ, ngành trong nhiều nhiệm kỳ gần đây như Phú Yên, Khánh Hòa, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Bộ Công Thương, Bộ Y tế... là những minh chứng cho quá trình tha hóa của họ, gây mất uy tín của tổ chức, làm hại đến thanh danh các tổ chức chính quyền, cơ quan mà họ đại diện.

Ngay cả khi đại dịch Covid-19 gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho xã hội mà một số người có chức quyền vẫn gian dối trong báo cáo, tham nhũng tiền của, làm ngơ trước những mất mát, đau khổ của đồng loại. Có người đã tổng kết, những đại án Vạn Thịnh Phát, Tân Hoàng Minh, Thuận An, Phúc Sơn, kit test của Nguyễn Quốc Việt, FLC của Trịnh Văn Quyết, AIC của Nguyễn Thị Thanh Nhàn... đều bắt đầu từ sự dối trá của cá nhân nhằm trục lợi, rồi dối trá có sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích với một số quan chức lũng đoạn xã hội ở tầm vĩ mô, ở đề xuất chủ trương và hoạch định chính sách.

Có những vị hôm trước còn đăng đàn diễn thuyết, dạy dỗ người khác sống trong sạch, noi gương sáng người này, người khác, thậm chí viết sách để rao giảng những điều hay ho, nhưng không lâu sau thì bị xử lý kỷ luật vì dối trá, tham nhũng. Họ dối trá trước khi bị phát hiện, sống hai mặt, dối trá ngay cả khi đang khoác mặt nạ trong sạch, cao đạo. Nhiều người đã không tin họ bởi nhìn cách họ sống trong đời với những điều họ rao giảng cách nhau một trời một vực, biết họ giả dối nhưng không thể làm gì nên đành quay lưng.

Căn bệnh dối trá như thứ bệnh nan y ăn ruỗng cơ thể xã hội, đến mức có đồng chí lãnh đạo cấp cao đã nói “sờ vào đâu cũng thấy có vấn đề”, “nếu xử lý hết thì không còn người làm việc”. Điều đó nói lên một thực tế: Căn bệnh này đã gây ra những nguy cơ cho xã hội đến mức, sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi đó là nạn “nội xâm” và thừa nhận chống nó rất gian khổ, bởi những thói xấu và tội lỗi ấy có mầm mống và gây tác hại lớn vì nó nằm ngay trong lòng thể chế, có cái sinh ra từ chính thể chế, được những tổ chức, băng nhóm câu kết với nhau cố tình lừa dối xã hội, báo cáo sai lệch sự thật, bao che cho nhau trong nhiều năm.

Khi họ chưa bị trừng phạt, họ lại cùng cơ quan, có chức quyền, là đồng chí, đồng nghiệp của chúng ta nên việc đấu tranh với họ rất khó khăn. Nhiều vụ tham nhũng đã diễn ra hàng chục năm, nhiều cán bộ đứng đầu các tổ chức, cơ quan vi phạm pháp luật hàng chục năm liền, "một tay che trời", khuynh đảo xã hội vì họ phạm tội có tổ chức, có phe nhóm. Tội lỗi của đám người này không chỉ gây ra những thất thoát lớn cho Nhà nước, nhân dân mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Thói dối trá như một thứ vi trùng dịch hạch cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.

3. Nhận thức được nguyên nhân và thực trạng nguy hại của sự dối trá, căn bệnh giả dối, cả xã hội đã chung tay trong cuộc chiến chống lại nó. Nhận ra thực chất của điều này cũng cần một quá trình, một sự đấu tranh gian khổ, bởi đám người giả dối thường sống ký sinh vào cơ chế, lợi dụng cơ chế, khoác những tấm áo khoác mỹ miều nhân danh tổ chức này nọ. Vạch mặt chỉ tên họ là cần thiết, lôi họ ra trừng trị là việc làm bắt buộc để xã hội chúng ta lành mạnh hơn, để bản chất tốt đẹp của Nhà nước do dân, vì dân, phụng sự dân trở về đúng nghĩa của nó.

Chúng ta đã nói đến sự giám sát của các tổ chức, cơ quan quyền lực, pháp luật và của nhân dân, nhưng cơ chế ấy thời gian qua đã để “lọt lưới” nhiều tội phạm. Họ lừa dối tổ chức và nhân dân bằng những chứng chỉ, bằng cấp, thành tích tự khai, những hứa hẹn trung thành, phụng sự Tổ quốc, nhưng miệng họ nói khác với những việc họ làm. Chỉ khi chiếc mặt nạ họ đeo bị rơi xuống thì bản chất thật của họ mới bị phơi bày trước xã hội. Những mất mát quá lớn cả về tiền của lẫn lòng tin, nhưng không thể không làm. Như xưa trong truyện dân gian cần “kính chiếu yêu" để các quan tham hiện rõ bộ mặt thật, thì ngày nay xã hội cũng cần nhiều "kính chiếu yêu" của tổ chức chính quyền, hệ thống luật pháp và sự giám sát của nhân dân để những quan tham không còn điều kiện gian dối, không dám dối trá.

Rõ ràng đã đến lúc cần đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm, đánh giá, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật thật chặt chẽ, nghiêm minh để loại dần ra khỏi cơ chế những kẻ cơ hội, tìm mọi cách dối trá nhằm lọt vào cơ quan công quyền mưu cầu lợi ích riêng. Làm trong sạch bộ máy, sử dụng đúng người, đúng việc, thực hiện chính sách vừa giao việc, vừa giám sát và kiên quyết loại ra khỏi đội ngũ những kẻ bất tài, thiếu phẩm chất đạo đức là góp phần ngăn chặn, loại trừ dần sự dối trá. Cơ chế lựa chọn cán bộ phải trở thành bộ máy thanh lọc kẻ gian dối và tìm được, lựa chọn được người chân tài thực đức để kích thích năng lực sáng tạo của mọi người. Lúc ấy, dối trá sẽ không còn đất sống và không thể gây tác hại, hệ lụy cho đất nước, xã hội và thể chế chính trị.

PGS, TS PHẠM QUANG LONG, nguyên Phó giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội

Tinh gọn bộ máy là một cuộc cách mạng để đất nước vươn mình phát triển

Đất nước bước vào kỷ nguyên mới, cần phải có một bộ máy điều hành được đổi mới từ diện mạo đến phong cách lãnh đạo và tinh thần làm việc của mỗi cá nhân. Hiện tại là thời điểm hội tụ đầy đủ các yếu tố phù hợp để sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW, thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Cách mạng theo nghĩa thông thường được hiểu là cuộc biến đổi dẫn đến sự thay đổi lớn, theo chiều hướng tiến bộ, tích cực trong một lĩnh vực cụ thể. Theo Chủ tịch Hô Chí Minh: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái tốt”. “Cuộc cách mạng”, đồng nghĩa với một sự thay đổi lớn. 

Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, trong giai đoạn hiện nay việc “tinh gọn tổ chức bộ máy là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là (mộtcuộc cách mạng, phải thực hiện với quyết tâm cao nhất”.

Vấn đề “tinh gọn tổ chức bộ máy” trong cải cách hành chính không phải bây giờ chúng ta mới nói tới, mới nhấn mạnh là “khâu đột phá” trong tháo gỡ thể chế. Cũng không phải Đảng và Nhà nước không có quyết tâm chính trị. Không phải chúng ta không triển khai. Vấn đề này được thể hiện rất rõ ngay từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986), khi tiến hành công cuộc Đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế theo thể chế thị trường, chúng ta đã ý thức được là đi kèm với đổi mới kinh tế phải đổi mới bộ máy nhà nước. Chúng ta đã chỉ ra được đối tượng cần cải cách là thể chế hành chính, bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ công chức và từng bước hiện đại hóa nền hành chính.

Kết quả cải cách hành chính trong giai đoạn trước đã có nhiều thành tựu, nhưng thực sự vẫn chưa được như mong muốn. Đặc biệt, so với các nước phát triển trên thế giới thì tổ chức bộ máy hành chính của chúng ta còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, hiệu quả hoạt động chưa cao. Một thực tế là 70% ngân sách nhà nước hiện vẫn dùng để trả lương, chi thường xuyên, phục vụ hoạt động của bộ máy. Nghĩa là chỉ còn 30% nguồn lực dành cho đầu tư cho phát triển, quốc phòng, an ninh, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội. Điều đó không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển. Đất nước bước vào kỷ nguyên mới, cần phải có một bộ máy điều hành được đổi mới từ diện mạo đến phong cách lãnh đạo và tinh thần làm việc của mỗi cá nhân. Hiện tại là thời điểm hội tụ đầy đủ các yếu tố phù hợp để sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW, thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Tinh gọn bộ máy là một cuộc cách mạng để đất nước vươn mình phát triển
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp lần thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW.

Tuy nhiên, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ: Công việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến “lợi ích” của mỗi con người trong từng tổ chức, nhất là trong việc đề xuất giải thể, sáp nhập một số cơ quan, tổ chức. Cần phải có sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của từng đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức. Do đó, “tới đây Trung ương phải gương mẫu, các ban của Đảng phải gương mẫu, Quốc hội gương mẫu, Chính phủ gương mẫu” đi đầu, nhằm biến một chủ trương lớn của Đảng trở thành hiện thực, khắc phục những chồng chéo, lãng phí, tiêu cực hiện nay, để đất nước có một bộ máy hệ thống chính trị thực sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Bởi, không tinh gọn tổ chức bộ máy đất nước không phát triển được. Tinh gọn tổ chức bộ máy, cần phải đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị hướng đến mục tiêu “Nhà nước nhỏ, xã hội lớn” là xu thế chung ở các quốc gia trên thế giới. Ở một số nước như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Singapore..., Chính phủ trao quyền tự quyết (phân quyền) cho chính quyền địa phương hướng về cơ sở, đồng thời tăng cường xã hội hóa, chuyển giao việc thực hiện dịch vụ công cho các đơn vị khác, cho xã hội.

Thể chế, quy định “yêu cầu phải thực hiện đồng bộ việc tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, có biên chế hợp lý. Trong đó, đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu để sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội.

Trong một cuộc cách mạng, đương nhiên sẽ có “đụng chạm” đến “lợi ích” nên cán bộ đảng viên phải đồng thuận, thậm chí phải “hy sinh” quyền lợi cá nhân. Quan trọng nhất trong một tổ chức là phải rõ được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và bố trí nhân sự để vận hành tổ chức đó, làm cho đúng, cho khách quan để lựa chọn đúng người, đúng việc. Trong quá trình thực hiện cần đặc biệt chú ý tới công tác cán bộ, bởi công tác này làm không cẩn thận là mất ổn định.

Mục tiêu sắp xếp tổ chức bộ máy, ngoài việc tinh gọn tổ chức bộ máy vẫn phải đảm bảo ổn định chính trị và hiệu quả cho sự phát triển. Thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tạo nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc.

Khởi tố 17 đối tượng dùng hung khí đánh người gây thương tích

 VOV.VN - Ngày 24/11, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cho biết, đơn vị vừa tống đạt các Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với 9 bị can, đồng thời cấm đi khỏi nơi cư trú 8 bị can để tiếp tục điều tra về tội "Cố ý gây thương tích".

Các bị can bị bắt tạm giam gồm: Ngô Thanh Kiệt, SN 2007; Hà Gia Bảo, SN 2006; Đỗ Văn Được, SN 2003; Huỳnh Tấn Khanh, SN 2005, cùng trú huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; Tô Trung Kiên, SN 2007; Trần Đăng Khoa, SN 2007; Nguyễn Văn Điền, SN 2005; Ngô Quốc Thái, SN 2005; Phan Thành Đạt, SN 2004, cùng trú huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Trước đó vào khoảng 21h30 ngày 16/10 vừa qua, Ngô Thanh Kiệt rủ nhóm bạn khoảng 27 người mang theo hung khí tự chế như: chỉa ba, đao, dao phóng lợn… tập trung tại khu vực Cầu bê tông giáp ranh giữa xã Hiệp Xương và xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang để tìm nhóm đối tượng ở xã Phú Bình giải quyết mâu thuẫn trước đó.

Lúc này, nhóm của Kiệt phát hiện T.V.T, SN 2008, điều khiển môtô chở N.P.V, SN 2007 và N.N.M.H, SN 2008 chạy ngang,  nhưng nhầm tưởng là nhóm đối tượng ở xã Phú Bình nên cả nhóm truy đuổi theo. Khi đến khu vực ấp Bình Phú 2, xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang thì nhóm của Kiệt đuổi kịp 3 thanh niên trên.

Nhóm của Kiệt dùng hung khí mang theo tấn công làm T., V. và H. ngã xuống đường; trong 3 người này có T. và V. kịp thời bỏ chạy, còn H. không may khi ngã xuống bị xe đè lên chân không chạy được, nên bị các đối tượng xông vào dùng hung khí tấn công gây thương tích nặng. Sau khi gây thương tích cho H., cả nhóm Kiệt lên xe rời khỏi hiện trường. H. được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện và điều trị với tỷ lệ thương tật 24%.

Hiện vụ án đang được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Tân tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Hãy tôn trọng quyền công dân của ông Thích Minh Tuệ

[CAND] Thời gian gần đây, hiện tượng liên quan ông Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) tiếp tục gây ồn ào trên mạng xã hội. Mặc dù những thông tin lợ...