Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021

“Phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”- vấn đề nhìn từ Myanmar

Việc chính phủ cầm quyền ở Myanmar nhanh chóng bị lật đổ sau một cuộc đảo chính của quân đội có lẽ sẽ là bài học đắt giá với rất nhiều chính đảng cầm quyền trên thế giới. Một trong những bài học đó là “phi chính trị hóa Công an, Quân đội”.



Sáng 1/2/2021, truyền thông trong nước và quốc tế đồng loạt đưa tin, Tổng thống Myanmar Win Myint, Cố vấn nhà nước Aung San Suu Kyi và một loạt nhân vật cấp cao khác của đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) cầm quyền bị Quân đội bắt. Người phát ngôn của NLD Myo Nyunt sau đó xác nhận thông tin và nói rằng với những gì đang diễn ra thực sự là một cuộc đảo chính.

Quân đội Myanmar ban bố tình trạng khẩn cấp ngay trong sáng 1/2 và tuyên bố quyền lực được giao lại cho Tổng tư lệnh Min Aung Hlaing. Quân đội Myanmar cũng tuyên bố sẽ kiểm soát chính quyền trong vòng 1 năm. Binh lính đã được triển khai bên ngoài tòa nhà chính quyền Thủ đô Naypyitaw và tòa thị chính thành phố Yangon. Hệ thống viễn thông, truyền hình, Internet ở Myanmar gián đoạn.

Việc quân đội Myanmar tiến hành đảo chính được xem là hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn kéo dài giữa quân đội với chính phủ dân sự cầm quyền ở quốc gia này, kể từ sau cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11/2020, với kết quả NLD giành thắng lợi áp đảo. Cụ thể, NLD thắng gần 400 ghế trong Quốc hội (hơn 60%), quân đội có 25% số ghế đương nhiên. Riêng Đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP) được quân đội ủng hộ, chỉ giành được 30 ghế.

USDP không công nhận kết quả, cáo buộc có gian lận trong cuộc bầu cử và yêu cầu Ủy ban Bầu cử phải điều tra và giải quyết. Đảng này cho rằng có đến 10 triệu phiếu gian lận. Ngày 26/1, quân đội Myanmar ra tối hậu thư cho Ủy ban Bầu cử, tuyên bố sẽ hành động nếu ủy ban này không giải quyết cáo buộc gian lận về danh sách cử tri.

Ủy ban Bầu cử ngay lập tức phủ nhận có gian lận trên diện rộng, khẳng định bầu cử đã diễn ra một cách tự do, công bằng, đáng tin cậy và “phản ánh ý nguyện của người dân”. Tuy vậy, hơn 280 cáo buộc đang được điều tra và Tòa tối cao Myanmar bắt đầu xử lý khiếu nại về bầu cử từ ngày 29/1. Cuối cùng, chính biến đã xảy ra vào rạng sáng 1/2, chỉ ít giờ trước khi Quốc hội khóa mới họp phiên đầu tiên.

Cuộc chính biến ở Myanmar có thể sẽ để lại nhiều hệ lụy to lớn. Nó có thể đẩy nền dân chủ non trẻ ở Myanmar rơi vào khủng hoảng. Trong khi đó, việc đóng cửa các ngân hàng và những bất ổn chính trị sẽ gây tổn thất lớn cho nền kinh tế Myanmar vốn bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Mặt khác, đảo chính có thể dẫn đến tình trạng đổ vỡ các thỏa thuận giữa chính quyền với các nhóm nổi dậy. Điều này có thể một lần nữa đẩy Myanmar vào vòng xoáy của bạo lực.

Các lực lượng nổi dậy có thể có động cơ để chấm dứt các thỏa thuận ngừng bắn và tìm cách mở rộng ảnh hưởng. Một hệ lụy có thể đã thấy rõ, đó là các cuộc biểu tình của người dân. Cuộc đảo chính của quân đội Myanmar đã làm dấy lên làn sóng phản đối không chỉ trong nước mà cả cộng đồng quốc tế.

Một điều dễ nhận thấy rằng, tương tự như ở Thái Lan, quân đội ở Myanmar có vị thế đặc biệt và rất hay chấp chính. Tại Thái Lan, quân đội đã nhiều lần làm đảo chính và thiết lập chính quyền quân sự lâm thời. Trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, quân đội Myanmar không thực hiện nhiều cuộc đảo chính như Thái Lan nhưng thời gian họ nắm giữ chính quyền nhà nước lại kéo rất dài. Sau khi tiến hành đảo chính vào năm 1962, quân đội Myanmar đã duy trì chính quyền quân sự suốt từ năm đó đến năm 2011. Điểm chung giữa quân đội Thái Lan và quân đội Myanmar là không nằm dưới sự lãnh đạo của bất kỳ một chính đảng nào. Họ có quyền lực rất to lớn và được phép nắm quyền trong trường hợp khẩn cấp.

Tại sao quân đội Myanmar lại tiến hành đảo chính? Vì sao chính phủ dân sự ở Myanmar nhanh chóng bị lật đổ? Trong bài viết này, tác giả xin không đề cập. Vấn đề tác giả muốn đề cập trong bài viết này, đó chính là mối liên hệ giữa sự kiện vừa xảy ra ở Myanmar với vấn đề “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang đang được các thế lực thù địch, phản động rêu rao ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, thời gian qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật, nhiều cá nhân, tổ chức, đối tượng thù địch trong và ngoài nước đã đưa ra những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013; đòi tam quyền phân lập; đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân,… Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an được chúng xác định là một nội dung trọng tâm.

Những người này cho rằng, Công an, Quân đội phải “trung lập”, “đứng giữa”, không thuộc một đảng phái nào, “Quân đội phải đứng ngoài chính trị”… Họ còn cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “hoàn thành sứ mệnh cao cả” là giải phóng dân tộc, nay nên trao lại quyền lãnh đạo đất nước cho “lực lượng dân chủ cấp tiến”.

Có thể thấy rằng, đây là những luận điệu sai trái, nhằm thực hiện âm mưu thâm độc là tách Công an và Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công an, Quân đội; làm cho lực Công an, Quân đội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới làm cho lực lượng vũ trang bị vô hiệu hóa.

Với thủ đoạn này, các thế lực thù địch, phản động không có gì khác là muốn làm cho lực lượng vũ trang nhân dân ta dần dần biến chất, từ lực lượng vũ trang của nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, trở thành một đội quân phản bội lại lợi ích của Đảng, của nhân dân, bảo vệ cho lợi ích của các tầng lớp, giai cấp tư sản.

Thực tiễn khẳng định, không có một lực lượng vũ trang nào là "đứng ngoài chính trị", là "trung lập". Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quân đội các nước tư bản đều cho thấy, giai cấp tư sản không hề coi nhẹ quân đội, trái lại, rất coi trọng xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần cho lực lượng vũ trang của họ. Trong khi đó, thực tiễn cũng đã cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tuyên bố xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp (quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô), chấp nhận đa nguyên, đa đảng đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối năm 1991.

Cuộc chính biến ở Myanmar có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng sự kiện này có liên quan trực tiếp tới vấn đề “phi chính trị hóa” Công an, Quân đội. Từ cuộc chính biến ở Myanmar, một bài học sâu sắc được rút ra với chúng ta, đó là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong các lực lượng vũ trang.

Tuyệt đối không bao giờ được sa vào bẫy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch, phản động. Để thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, CAND nói riêng; không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức.

Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Nguyễn Sơn - Báo điện tử CAND

 

Vẫn chiêu bài vu khống lố bịch!

Những ngày trước và trong Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương và quân dân ta đều chung sức, đồng lòng, nỗ lực tham gia phòng, chống dịch (PCD) Covid-19.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu Hoành Mô (Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh) tham gia hoạt động kiểm soát, ngăn chặn, phòng, chống dịch Covid-19. Ảnh: Hoàng Thùy/qdnd.vn


Nhiều đồng chí lãnh đạo họp xuyên đêm để chỉ đạo PCD; Bộ đội Biên phòng tăng cường lực lượng trực tại các tổ, chốt trên biên giới trong dịp Tết để ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép phòng dịch bệnh xâm nhập vào nội địa; hàng vạn cán bộ, chiến sĩ LLVT và nhân viên y tế cùng nhiều lực lượng túc trực, phục vụ tại các khu cách ly, khu phong tỏa và phun khử trùng, điều trị cho người nhiễm Covid-19...


Thế nhưng một số trang mạng nước ngoài, một số cá nhân có tâm địa xấu xa lại rêu rao rằng “việc PCD Covid-19 lần này ở Việt Nam có vẻ chủ quan” hoặc “lần này "toang" rồi”; thậm chí chúng còn “mong có lãnh đạo nhiễm Covid-19 thì vui biết mấy”... Đây vẫn là những chiêu bài rất cũ kỹ của những “anh hùng bàn phím” có tư tưởng bất mãn, phản động nhằm đánh lạc hướng, lung lạc niềm tin của nhân dân đối với công tác PCD ở nước ta.


Trực tiếp tham gia cùng các lực lượng PCD của quân đội tại tỉnh Gia Lai và Bình Định, tôi thấy rõ quyết tâm cao độ từ chính quyền địa phương đến người dân. Tính từ khi có ca nhiễm đầu tiên ở Gia Lai đến nay, với sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương, sự hỗ trợ từ các cơ quan chuyên môn, sự sâu sát của cán bộ các cấp và ủng hộ của nhân dân, dịch Covid-19 trên địa bàn đã cơ bản được khống chế, hàng nghìn trường hợp F1, F2, F3... được truy vết, đưa đi cách ly tập trung hoặc vận động cách ly tại nhà. Hằng ngày, các cơ quan truyền thông, báo chí kịp thời thông tin những ca nhiễm mới để người dân được biết, phòng tránh...


Tại những địa phương khác trên cả nước có người nhiễm Covid-19, dù trong dịp Tết nhưng cán bộ các cấp vẫn duy trì họp PCD thường xuyên và trực tiếp đến những khu vực có người nhiễm, nghi nhiễm để chỉ đạo khoanh vùng, phun dung dịch khử khuẩn. Hàng nghìn y sĩ, bác sĩ, cán bộ, chiến sĩ LLVT đã gác lại việc riêng, chấp nhận khó khăn, rủi ro xung phong vào tâm dịch làm nhiệm vụ... Những việc làm cụ thể đó là minh chứng sinh động, đập tan những luận điệu phản động vu khống rằng “Việt Nam chỉ lo đại hội đảng, không lo PCD”, “không kiểm soát được tình hình dịch bệnh”... nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, xóa nhòa thành quả của cả hệ thống chính trị cùng tinh thần đoàn kết của dân tộc ta.


Tết cổ truyền vừa qua, người dân nước ta vẫn vui xuân, đón Tết trong trạng thái bình thường mới; vẫn đến chợ hoa, đi siêu thị mua sắm, tham quan vãn cảnh... mà không lo sợ dịch Covid-19 khi thực hiện đầy đủ "5K" (khẩu trang-khử khuẩn-không tụ tập đông người-khai báo y tế-khoảng cách). Thực tế, nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế uy tín vẫn đánh giá Việt Nam là một trong những nước và vùng lãnh thổ xử lý đại dịch Covid-19 hiệu quả nhất.

Những luận điệu phản động, cố tình xuyên tạc công tác PCD Covid-19 ở nước ta thật là lố bịch!

Theo qdnd.vn

 

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

Lương tâm nào cho những kẻ chà đạp lên lợi ích dân tộc

Công cuộc đấu tranh với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước dựa trên chiêu bài nhân quyền nhằm vào Việt Nam còn lâu dài và phức tạp. Để tạo thêm niềm tin của nhân dân vào sứ mệnh ấy, rất cần những cái đầu tỉnh táo để nhận diện và vạch trần sự thật về những đối tượng vi phạm pháp luật đang được các cá nhân, tổ chức chống phá gắn cho cái mác “tù nhân lương tâm”.

  • Mới đây, tổ chức Theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW) ra thông cáo báo chí lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền với nội dung “Việt Nam nằm trong số ít nhất 83 chính phủ trên thế giới đã dùng đại dịch COVID-19 để biện minh cho hành động vi phạm quyền tự do ngôn luận và hội họp ôn hòa của người dân”. 

Trong báo cáo này, HRW cho rằng, trong năm 2020, chính quyền Việt Nam đã gia tăng trấn áp những người cổ vũ cho các quyền dân sự và chính trị cơ bản, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và quyền lập hội... Thậm chí, một quan chức của tổ chức này còn vu cáo rằng, năm 2020 “lại là một năm đen tối nữa cho nhân quyền ở Việt Nam”.

Để chứng minh cho lập luận xuyên tạc ấy, HRW đã liệt kê một số bản án dành cho các đối tượng vi phạm pháp luật thời gian qua. Trong đó có những trường hợp đã vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam, như: Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Chí Dũng, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Phạm Đoan Trang... 

Tất cả những người này đều phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo Điều 117, Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, trang fanpage Việt Tân đã lợi dụng ảnh hưởng của Báo cáo nhân quyền HRW đối với Việt Nam để “chế tác” nhiều tấm thiệp gửi đến các “tù nhân lương tâm” như Lê Đình Lượng, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Năng Tĩnh, Hoàng Đức Bình… với ngôn từ lố bịch.

Đây là một luận điệu chẳng mới mẻ gì của HRW, bởi bao năm qua họ vẫn chỉ nhai đi nhai lại luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Từ bao giờ, hành động chống phá Nhà nước, chống phá nhân dân lại được gọi là yêu nước?

Từ bao giờ, những kẻ xảo trá, phản bội Tổ quốc, miệt thị đất nước mình lại được cho là “đang đấu tranh vì tự do, nhân quyền”? Đây là một chiêu trò mang màu sắc chính trị của HRW và các tổ chức phản động như Việt Tân nhằm chống phá đất nước Việt Nam.

Trong vấn đề này, cần thấy rõ:


Thứ nhất, Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”.

Tù nhân là cụm từ dành cho những người có hành vi vi phạm pháp luật, bị toà án tuyên là có tội và phải chịu hình phạt tù theo quyết định có hiệu lực của toà án. Việc một người bị phạt tù là hậu quả tất yếu khi người đó có hành vi phạm tội, xâm phạm các quan hệ xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Chúng ta phải khẳng định một lần nữa rằng, ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật, bị pháp luật xử lý. Cách gọi “tù nhân lương tâm” chỉ là một chiêu trò của tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International - AI) và những cá nhân, tổ chức thù địch. Họ nêu ra với ý đồ cổ súy, hậu thuẫn cho các đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam, can thiệp bảo vệ cho những đối tượng này.

Theo một số thông tin, trước khi thuật ngữ “tù nhân lương tâm” được sử dụng thì AI sử dụng thuật ngữ tù nhân chính trị. Tuy nhiên, AI nhận thấy có rất nhiều người không hề hoạt động chính trị, mà chỉ đơn thuần thực hiện các quyền con người cơ bản hoặc các quyền công dân của mình, vì thế mà họ phải chịu cảnh tù đày, bắt bớ, đàn áp. Những người như vậy nếu xét theo tiêu chuẩn của một tù nhân chính trị thì không phải, cho nên AI đã nghĩ ra một khái niệm mới, đó là “tù nhân lương tâm”. 

Qua đó, các tổ chức, cá nhân đã lợi dụng thuật ngữ “tù nhân lương tâm” của tổ chức AI này để đưa ra tuyên bố, phúc trình, báo cáo và phát ngôn, trả lời phỏng vấn... về vấn đề nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam nhằm biện hộ cho một số người ở Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bị tuyên các bản án hình sự. 

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và đại diện cơ quan chức năng liên quan nhiều lần khẳng định, ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật. 

Tuy nhiên, các tổ chức, cá nhân chống đối luôn tìm cách phớt lờ sự thật và chứng lý đó. Bởi vậy, mỗi khi TAND ở Việt Nam xét xử, tuyên án một hoặc một nhóm người có hành vi vi phạm pháp luật với các tội danh liên quan hoạt động chính trị, chống phá Nhà nước thì các tổ chức, cá nhân trên đã dựa vào cái gọi là “tù nhân lương tâm” yêu cầu Việt Nam “phải trả tự do vô điều kiện, ngay lập tức” cho số người này nhằm vu cáo Nhà nước Việt Nam.

Thứ hai, đây là chiêu trò hòng cổ vũ, khích lệ, động viên cho số đối tượng chống phá chính quyền tiếp tục “vững niềm tin” hòng tiếp tục thực hiện hoạt động chống phá sau khi ra tù.

Năm qua, không ít lần trên mạng xã hội xuất hiện những thông tin đại loại như: Các tù nhân lương tâm trong các trại giam ở Việt Nam thường xuyên bị ngược đãi, đe dọa, thậm chí bị đánh đập, thiếu đồ ăn thức uống... Bằng cách rêu rao rằng, thông qua nguồn tin bí mật, nguồn tin giấu tên, các “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam hiện như “cá nằm trên thớt”. Thời gian qua, các cá nhân, tổ chức trên liên tục kêu gọi phải thả các tù nhân này ngay lập tức. Dường như chưa đủ để bẻ lái dư luận,họ còn phỏng vấn đối với người nhà của các đối tượng đang bị giam giữ, rồi tặng quà, ủng hộ tiền với mục đích cổ súy các đối tượng phạm tội ở trong tù hãy yên tâm và tiếp sức, lôi kéo người nhà đối tượng trên tiếp tục thực hiện các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam.

Với danh nghĩa “tù nhân lương tâm”, các cá nhân, tổ chức chống phá hy vọng đối tượng vi phạm pháp luật ở trong tù yên tâm và đã được sự “cưu mang”, “thương hại” từ bên ngoài. Thậm chí, có kẻ lợi dụng cái mũ “tù nhân lương tâm” để tạo danh tiếng, điểm nóng, khuếch trương “thương hiệu”, thu hút tài trợ từ các tổ chức chống đối, phản động bên ngoài như trường hợp Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Cù Huy Hà Vũ... 

Đồng thời, cũng qua chiêu bài “tù nhân lương tâm”, các đối tượng chống đối tạo cơ hội, tạo cái cớ cho những thế lực nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép với chính quyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiến tới gây bất ổn định tình hình an ninh, trật tự ở Việt Nam, dần dần thực cách mạng màu chuyển hoá chế độ chính trị ở nước ta.

Khái niệm “tù nhân lương tâm” thực sự là một cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong con người. Đó cũng là lý do mà ngày càng có những đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam bỗng nhiên được dựng lên như những “hình tượng tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để các thế lực thù địch vu cáo, bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. 

Mục đích của cái danh “tù nhân lương tâm” là cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối xã hội, chống phá chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia, từ đó tạo thêm vây cánh và nhân rộng “chân rết” phục vụ cho những hành động chống phá Việt Nam thông qua các vấn đề về tự do, tôn giáo và nhân quyền. 

Nói cách khác, “tù nhân lương tâm” thực chất chỉ là một món hàng để đem ra trao đổi và mua chuộc, một thứ công cụ để đánh lừa dư luận. Tiếc rằng, trong dư luận vẫn còn không ít người nhận thức đơn giản, cả tin trước những luận điệu sai sự thật mà những kẻ mang mác “tù nhân lương tâm” nhưng thực chất lại đang bán rẻ lợi ích của quốc gia, dân tộc dựng lên.

Công cuộc đấu tranh với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước dựa trên chiêu bài nhân quyền nhằm vào Việt Nam còn lâu dài và phức tạp. Để tạo thêm niềm tin của nhân dân vào sứ mệnh ấy, rất cần những cái đầu tỉnh táo để nhận diện và vạch trần sự thật về những đối tượng vi phạm pháp luật đang được các cá nhân, tổ chức chống phá gắn cho cái mác “tù nhân lương tâm”.

Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

Đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

TCCS - Tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay.

Một số vấn đề về quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

Tự do ngôn luận - một trong những quyền cơ bản của con người

Các nhà báo trong và ngoài nước đang tác nghiệp tại Đại hội XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN


Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào, và không có giới hạn về biên giới”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”. Có thể nói, tự do ngôn luận là cơ sở quan trọng để thực hiện đầy đủ các quyền con người khác và gắn liền với quyền tự do biểu đạt, tự do hội họp, lập hội, tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như quyền tham gia quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận đã có sự biến đổi lớn. Internet và mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh hưởng của nó đôi khi còn mạnh mẽ và nhanh chóng hơn cả báo chí truyền thống và các hình thức biểu đạt khác. Thực tế này đã đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng.

Giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

Tự do ngôn luận là quyền con người cơ bản, nhưng luôn phải có giới hạn trong khuôn khổ của pháp luật. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Như vậy, quyền tự do ngôn luận không phải là tự do tuyệt đối. Trong một số trường hợp nhất định, tự do ngôn luận có thể xung đột với các giá trị hay quyền chính đáng khác.

Đặc biệt, trong bối cảnh bùng nổ của internet và mạng xã hội, thông tin càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát. Thông qua các trang thông tin điện tử và mạng xã hội, người dùng có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền bất cứ thông tin gì thông qua tài khoản cá nhân của mình mà không chịu bất kỳ giới hạn nào. Việc thể hiện quyền tự do ngôn luận của mỗi người chưa bao giờ trở nên dễ dàng và có sức lan truyền nhanh chóng đến thế. Nhưng chính điều này cũng mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan điểm sai trái, thái độ cực đoan, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ…

Nhìn vào thực tiễn thực thi pháp luật của nhiều nước trên thế giới, có thể thấy không hề tồn tại cái được gọi là quyền tự do ngôn luận tuyệt đối. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm và gây hấn, mà không bị xem là vi hiến.

Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí.

Ngoài Pháp, nhiều nước châu Âu khác cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề này nhằm chống lại mọi hình thức tuyên truyền kích động, tiến hành xử lý hình sự đối với những phát ngôn thù ghét và kích động. Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ cũng hình sự hóa các hành vi phỉ báng, xúc phạm danh dự của tổng thống hay các thành viên hoàng gia. Bên cạnh đó, trong nỗ lực chung nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn thù địch, tiêu cực trên internet, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên internet với sự cam kết hành động của bốn doanh nghiệp mạng lớn nhất thế giới bao gồm Facebook, Twitter, Youtube và Microsoft. Những động thái này nhằm “bảo đảm quyền tự do ngôn luận đúng nghĩa của người dân và tạo cơ sở để xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, văn minh”(1).

Mới đây nhất, giữa “bão” tin giả về tình hình dịch bệnh COVID-19, một loạt các quốc gia trên thế giới đã tiến hành nhiều biện pháp xử phạt từ cảnh cáo, phạt tiền đến bỏ tù những kẻ tung tin đồn thất thiệt. Ở Trung Quốc, hành vi tung tin sai sự thật về dịch bệnh bị phạt tiền, giám sát công cộng hoặc phạt tù từ 3 năm đến 7 năm nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Ở Hàn Quốc, Tổng thống Moon Jae-in tuyên bố việc lan truyền thông tin bịa đặt về dịch bệnh là “hành vi phạm tội nghiêm trọng”. Trong khi đó, ở Malaysia, Chính phủ đã bắt giữ 6 người vì đăng tải thông tin sai lệch về virus Corona. Cảnh sát Iran cũng bắt giữ một người vì đăng tải video giả mạo, loan tin một bệnh nhân COVID-19 nhập viện lên mạng xã hội. Tại Anh, một “đơn vị kiểm soát thông tin sai lệch” đã được thành lập nhằm tiến hành xác định tin giả về COVID-19 và liên lạc với các doanh nghiệp truyền thông để loại bỏ nó.

Đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng ở Việt Nam hiện nay

Người dùng internet và mạng xã hội, nhất là giới trẻ, cần nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin_Ảnh: Tư liệu

Tự do nói chung, tự do ngôn luận nói riêng đều cần được hiểu là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, Công ước nhân quyền châu Âu năm 1953, Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, nhưng cũng nhấn mạnh tự do ngôn luận là tự do trong những giới hạn của đạo đức và pháp luật, chủ yếu là nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự (đời tư) của người khác, bảo vệ bí mật kinh doanh, chống kỳ thị, phân biệt đối xử, chống kích động bạo lực, chiến tranh, chống chỉ trích, phê phán chính quyền, đặc biệt nếu đó là những kêu gọi bạo loạn, đe dọa đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Bởi vậy, mỗi quốc gia có thể cân nhắc tình hình thực tế của mình để cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.

Rõ ràng, trong bất cứ chế độ chính trị nào cũng không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối, các quốc gia đều xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận; đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung, không phải là sự tuyệt đối hóa tự do cá nhân, không thể lợi dụng tự do ngôn luận để viết, nói, xuyên tạc với ý đồ xấu, bất chấp luân lý và luật pháp.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Bên cạnh đó, chúng ta còn có Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Khung pháp lý của nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có những quy định để hạn chế và ngăn chặn những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, xâm hại tới lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Nhận thức rõ tầm quan trọng, lợi ích cũng như những hiểm họa từ mặt trái của internet và mạng xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm phát triển internet và mạng xã hội; đồng thời bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá chính quyền, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong đó phải kể đến Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 16-9-2013, của Ban Bí thư khóa XI, về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng”; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-7-2013, của Chính phủ, về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17-6-2014, của Thủ tướng Chính phủ, về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới”Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên”. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-1-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tăng cường chỉ đạo công tác đấu tranh, phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, âm mưu, hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ động triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng internet, mạng xã hội để vi phạm pháp luật. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) được thành lập theo Quyết định số 1198/QĐ-TTg, ngày 15-8-2017, của Thủ tướng Chính phủ, đóng vai trò nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao và “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018, đều quy định rõ những hành vi như đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... đều bị pháp luật xử lý.

Các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước đã và đang lợi dụng tự do ngôn luận để xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, nói xấu chính quyền, gây kích động, hoang mang trong nhân dân, đe dọa an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Chẳng hạn, liên quan đến việc thông qua Luật An ninh mạng, nhiều trang điện tử và các phần tử phản động đã đưa tin bóp méo, xuyên tạc, cho rằng luật này “đặc biệt xâm phạm không gian riêng tư”, “vi phạm tự do ngôn luận, báo chí, internet”. Một số người không đủ thông tin, thiếu hiểu biết nên dễ dàng tin theo và có những phát ngôn chống đối, cản trở việc thi hành Luật. Vụ việc Đồng Tâm ngày 9-1-2020 gây chấn động và chia rẽ trong cộng đồng bởi quá nhiều luồng tin trái chiều trên mạng xã hội. Các thế lực thù địch cũng nhân cơ hội này mà tuyên truyền nhằm chống phá chế độ…

Hiện tượng tung tin giả mạo, sai sự thật trên mạng cũng gây ra nhiều hệ lụy. Đơn cử, trong khi Nhà nước nỗ lực ngăn chặn, kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh COVID-19, có những kẻ lợi dụng tình hình dịch bệnh để tuyên truyền thông tin sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước gây hoang mang dư luận xã hội. Chúng ngụy tạo bức tranh sai lệch về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, phát tán tin giả, dựng chuyện về số người mắc bệnh, số ca tử vong và loan tin tốc độ lây lan dịch bệnh lớn hơn nhiều lần con số do Chính phủ công bố, tạo tâm lý sợ hãi cho cộng đồng, làm xáo trộn đời sống xã hội, gây nghi ngờ, mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Qua các thông tin vô căn cứ, các thế lực thù địch cố tình lờ đi những kết quả quan trọng chúng ta đã đạt được, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước trong xử lý dịch bệnh, vu khống Nhà nước che giấu thông tin, không ngăn chặn dịch bệnh ngay từ đầu… Không những vậy, rất nhiều đối tượng còn cố tình tung tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh nhằm trục lợi bất chính. Đó là những thông tin tiêu cực khiến người dân lo sợ, đổ xô đi mua khẩu trang, lương thực tích trữ, dẫn đến tình trạng “găm” hàng, “thổi” giá… Những hành vi như thế không thể dùng “tự do ngôn luận” để biện hộ.

Khi chúng ta ngăn chặn những thông tin xuyên tạc, sai trái trên, các thế lực thù địch rêu rao rằng, đây là “một hình thức kiểm duyệt thông tin”, “vi phạm quyền tự do ngôn luận”. Sự thật là, việc ngăn chặn trên là cần thiết, phù hợp với quy định của pháp luật, các quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện. Sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh các hoạt động trao đổi, làm việc với đại diện của Facebook, Google đề nghị ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội thì hàng nghìn video, trong đó có những video có nội dung kích động chống phá Đảng, Nhà nước đã được gỡ bỏ khỏi Youtube; hàng nghìn đường link có nội dung vi phạm pháp luật, hàng trăm tài khoản giả mạo, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước cũng đã được Facebook ngăn chặn…

Để đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng, cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp:

Thứ nhất, giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng và tinh thần cảnh giác trước tin đồn. Nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng.

Thứ hai, thường xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa theo kịp sự phát triển của mạng xã hội.

Thứ ba, cần tăng cường các biện pháp kỹ thuật. Cụ thể là, đầu tư thỏa đáng cho các cơ quan có trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia. Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi về công nghệ thông tin, có khả năng thực hiện hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật. Đồng thời, khuyến khích phát triển mạng xã hội của Việt Nam; phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội lớn từ nước ngoài, như Facebook, Google, Twitter, Youtube để kịp thời ngăn chặn, xử lý, loại trừ những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn xã hội, an ninh quốc gia.

PGS, TS. TRƯƠNG HỒ HẢI - THS. ÂU THỊ TÂM MINH

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

--------------------

(1) Vũ Công Giao, Nguyễn Đình Đức: “Chống phát ngôn thù ghét, phỉ báng trên internet ở Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và những giá trị tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, ngày 1-9-2018

 

Đấu tranh với các luận điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

(TG) - Sự phát triển của công nghệ mới đang phá bỏ liên tục những ranh giới, biên giới của không gian mạng. Cùng với việc mở rộng không gian mạng và tính liên kết ngày càng cao thì các vấn đề của xã hội, của con người lại càng phức tạp. Không gian mạng đang chiếm lĩnh không gian và thời gian thực của con người ngày càng nhiều, ảnh hưởng ngày càng lớn với tốc độ ngày càng nhanh, chính vì vậy nó ảnh hưởng sâu rộng và phức tạp đến lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay.



MỘT SỐ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Một là, thách thức đối với hệ tư tưởng chính thống.

Do không gian mạng có tính mở với đặc trưng tự do, đa dạng, bình đẳng, nhiều khi bị xoá nhoà ranh giới giữa thực và ảo, giữa vật lý và hiện thực, vì vậy không gian mạng mang đến những thách thức to lớn đối với nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Có thể nói, hiện nay, các hệ tư tưởng, các luận điểm, các học thuyết ngoài mácxít, từ các loại chủ nghĩa khác nhau như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa khủng bố mạng… cho đến chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, cũng như vô số các tôn giáo, tín ngưỡng, thậm chí là mê tín dị đoan, đang xuất hiện một cách tràn lan trên không gian mạng. Lợi dụng triệt để những ưu thế của không gian mạng, một cách trực tiếp hay gián tiếp, các loại hình ý thức hệ đó đã và đang công khai hay ngấm ngầm chĩa mũi nhọn vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều luận điểm, quan điểm trong các ý thức hệ đó đi ngược lại với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời chứa đựng tính chất độc hại, phản động, bóp méo thế giới quan và xuyên tạc nhân sinh quan, cố tình định hướng giá trị một cách sai lầm cho những người dùng mạng Internet nói riêng và cho người dân Việt Nam nói chung.

Hai là, thách thức đối với mặt trận tư tưởng - văn hoá.

Một hệ tư tưởng nếu không được truyền bá và giáo dục, củng cố và phát triển thường xuyên thì hệ tư tưởng đó sẽ chết. Đảng ta luôn chú trọng mặt trận tư tưởng - văn hoá, luôn ý thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục tư tưởng, song sự phát triển của không gian mạng hiện nay đang đặt ra những thách thức vô cùng to lớn. Các phương tiện truyền thông truyền thống của chúng ta (truyền hình, phát thanh, sách, báo, tạp chí, phim ảnh, bảng tin, khẩu hiệu cổ động…)đã tỏ ra chậm và phần nàohạn chế về tính hiệu quả.Các phương thức truyền thông về tư tưởng, lý luận chủ yếu vẫn là phổ biến nghị quyết, vận động học tập, nghe báo cáo,… trong một không gian và thời gian nhất định, với tính chất bắt buộc, tập trung và thống nhất, chủ yếu vẫn mang tính một chiều từ trên xuống và số lượng đối tượng tiếp nhận thông tin hạn chế. Trong khi đó, không gian mạng với tính chất đa dạng, phi tập trung, tự chủ và tương tác đã tác động mạnh mẽ và thách thức to lớn đến cách giáo dục tư tưởng truyền thống. Không gian mạng với phương thức giao tiếp ngang hàng, tương tác hai chiều và đa chiều, đã tạo ra một bước nhảy vọt về chất trong phương thức tiếp cận thông tin và trao đổi ý kiến, đồng thời cung cấp cho cư dân mạng cơ hội giao tiếp bình đẳng và một nền tảng để chia sẻ quan điểm một cách tự do. Việc tuyên truyền, phổ biến các luận điểm trên không gian mạng có hiệu quả cao, sức lan tỏa rộng và tính thẩm thấu mạnh đã cóảnh hưởng nhất định đến tính định hướng,quyền kiểm soát, quản lý của Đảng, Nhà nướcđối với mặt trận tư tưởng - văn hóa.

Ba là, thách thức đối với niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Không gian mạng đã cải thiện đáng kể khả năng của các cá nhân và tổ chức trong việc công bố, trao đổi,tiếp cận và tiếp thu thông tin, đồng thời nâng cao tính độc lập, tính đa dạng, tính chọn lọc và sự khác biệt của các suy nghĩ. Mọi người có thể tự do bày tỏ ý kiến của mình (một cách ẩn danh), và có thể nhanh chóng trao đổi và chia sẻ thông tin cũng như suy nghĩ của mình với những người khác về mọi vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống…trên không gian mạng. Không kể sự chống phá có chủ đích của các thế lực thù địch, bản thân sự yếu kém của các công ty công nghệ lớn trong việc bảo mật thông tin, vi phạm quyền riêng tư, buông lỏng tin giả, kích động bạo lực… và sự bất cập của chúng ta trong quản lý, kiểm soát không gian mạng đã tạo môi trường thuận lợi cho việc ngụy tạo, phổ biến lan tràn các luận điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, đặc biệt là trên các mạng xã hội. Mặc dù trong vài năm trở lại đây, chúng ta đã phần nào giành lại thế chủ động trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng, song tính bất đối xứng của cuộc chiến tư tưởng vẫn là một hiện tượng thường thấy, là một thách thức không nhỏ. Điều này gây ảnh hưởng xấu và làm suy giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, đối với chế độ, đối với mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG 

Một là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn trên không gian mạng.

Không ngừng nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn cụ thể, đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút và khái quát lý luận là yêu cầu đầu tiên, là nhiệm vụ căn bản.

Trận địa tư tưởng cần vũ khí quan trọng nhất là vũ khí lý luận, song lý luận phải thật sự khoa học chứ không phải lý thuyết suông, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và mang hơi thở của cuộc sống, phải bao quát được những vấn đề nền tảng, có tính quy luật và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề then chốt.

Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Do đó, cần giữ vững và không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận, giáo dục chính trị, tư tưởng trên mặt trận trực tuyến.

Trong thời đại ngày nay, các cách thức và phương tiện để con người tiếp cận thông tin về mọi vấn đề thuộc mọi lĩnh vực đã vượt xa các cách thức và phương tiện truyền thống. Nhờ vậy, họ có nhiều và nhanh các thông tin, có hiểu biết sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài rất nhiều nhờ không gian mạng. Chính vì vậy, để có thể định hướng tư tưởng trên không gian mạng, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng sự thực khách quan, đối mặt với các vấn đề đang nảy sinh từ thực tiễn của xã hội; dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức đúng và đưa ra các ý tưởng, phương án giải quyết các vấn đề của Việt Nam một cách đúng đắn, hiệu quả;từ đó mới có thể nâng cao tính thuyết phục, tính định hướng của hệ tư tưởng chính thống.

Những thiết chế xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam chưa thay đổi kịp để ứng phó với những thách thức của không gian mạng. Ví dụ, trong lĩnh vực truyền thông, các cơ quan lớn của Đảng, như Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản; cơ quan lớn của Nhà nước như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam đều được xây dựng và vận hành chủ yếu trên cơ sở báo viết, báo tiếng, báo hình. Dù có chuyển đổi một phần sang phương thức báo điện tử, song mới chỉ là một phần rất nhỏ trên không gian mạng, khó có thể chiếm lĩnh hoặc định hướng được không gian mạng. Về lâu dài, cần thiết phải có một cơ quan thuộc chính phủ chuyên trách không gian mạng, ở đó các nguồn lực của nhiều bộ, ngành, nhiều cơ quan truyền thông sẽ phải tập trung cho cơ quan mới này.

Hai là, lấy dân làm gốc kết hợp với xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận trên địa hạt không gian mạng.

Chúng ta luôn tâm niệm phải lấy dân làm gốc, vậy “dân” trên không gian mạng có phải là gốc không? Dù trong tình huống nào đi nữa, nhất là trên không gian mạng, chúng ta càng phải tuân thủ nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, nghĩa là chúng ta cần cần có sự ủng hộ của những người quản trị (Admin), người điều hành (Smod), người điều tiết (Moderator), người gây ảnh hưởng (Kol),… cũng như của toàn thể cư dân mạng. Chúng ta phải luôn tôn trọng địa vị cao nhất của nhân dân, tin tưởng và dựa vào quần chúng nhân dân trên không gian mạng. Vấn đề cốt lõi của công tác tư tưởng trực tuyến là cách đối xử với quần chúng trên không gian mạng. Chúng ta nói lên tiếng nói của người dân, bênh vực nhân dân, đứng về phía quyền lợi của nhân dân thì nhân dân sẽ tin yêu chúng ta, bảo vệ chúng ta.

Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Do đó, cần giữ vững và không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận, giáo dục chính trị, tư tưởng trên mặt trận trực tuyến.

Trong thời đại ngày nay, các cách thức và phương tiện để con người tiếp cận thông tin về mọi vấn đề thuộc mọi lĩnh vực đã vượt xa các cách thức và phương tiện truyền thống. Nhờ vậy, họ có nhiều và nhanh các thông tin, có hiểu biết sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài rất nhiều nhờ không gian mạng. Chính vì vậy, để có thể định hướng tư tưởng trên không gian mạng, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng sự thực khách quan, đối mặt với các vấn đề đang nảy sinh từ thực tiễn của xã hội; dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức đúng và đưa ra các ý tưởng, phương án giải quyết các vấn đề của Việt Nam một cách đúng đắn, hiệu quả;từ đó mới có thể nâng cao tính thuyết phục, tính định hướng của hệ tư tưởng chính thống.

Những thiết chế xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam chưa thay đổi kịp để ứng phó với những thách thức của không gian mạng. Ví dụ, trong lĩnh vực truyền thông, các cơ quan lớn của Đảng, như Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản; cơ quan lớn của Nhà nước như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam đều được xây dựng và vận hành chủ yếu trên cơ sở báo viết, báo tiếng, báo hình. Dù có chuyển đổi một phần sang phương thức báo điện tử, song mới chỉ là một phần rất nhỏ trên không gian mạng, khó có thể chiếm lĩnh hoặc định hướng được không gian mạng. Về lâu dài, cần thiết phải có một cơ quan thuộc chính phủ chuyên trách không gian mạng, ở đó các nguồn lực của nhiều bộ, ngành, nhiều cơ quan truyền thông sẽ phải tập trung cho cơ quan mới này.

Hai là, lấy dân làm gốc kết hợp với xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận trên địa hạt không gian mạng.

Chúng ta luôn tâm niệm phải lấy dân làm gốc, vậy “dân” trên không gian mạng có phải là gốc không? Dù trong tình huống nào đi nữa, nhất là trên không gian mạng, chúng ta càng phải tuân thủ nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, nghĩa là chúng ta cần cần có sự ủng hộ của những người quản trị (Admin), người điều hành (Smod), người điều tiết (Moderator), người gây ảnh hưởng (Kol),… cũng như của toàn thể cư dân mạng. Chúng ta phải luôn tôn trọng địa vị cao nhất của nhân dân, tin tưởng và dựa vào quần chúng nhân dân trên không gian mạng. Vấn đề cốt lõi của công tác tư tưởng trực tuyến là cách đối xử với quần chúng trên không gian mạng. Chúng ta nói lên tiếng nói của người dân, bênh vực nhân dân, đứng về phía quyền lợi của nhân dân thì nhân dân sẽ tin yêu chúng ta, bảo vệ chúng ta.

Những người làm công tác tư tưởng, lý luận trên không gian mạng đòi hỏi phải có tầm cao của tư tưởng, độ sắc nét của các nhận định, đánh giá và độ vững chắc của lý luận

Giống như Bác Hồ trước đây nói ai cũng hiểu, ai cũng thấm thía, những người làm công tác tư tưởng, lý luận cũng phải học theo phương pháp diễn ngôn đó. Nói một cách hình ảnh, lý luận không chỉ như một món ăn cầu kỳ dành cho khách sành ăn trong nhà hàng sang trọng, mà cần thiết hơn, nó còn phải là món ăn đường phố cho người lao động, món ăn hằng ngày trong mỗi gia đình. Những vấn đề lý luận mà quần chúng quan tâm cần được giải thích rõ ràng, cặn kẽ bằng ngôn ngữ của quần chúng; người làm lý luận phải nắm vững cách nói của quần chúng, sử dụng ngôn ngữ sinh động, gần gũi với nhiều hình thức đa dạng để dễ được quần chúng chấp nhận, để lý luận thực sự bén rễ và đi vào suy nghĩ, cũng như trở thành hành động cụ thể, thiết thực của người dân.

Thực tiễn cần được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm. Vì vậy, một đặc thù của hoạt động tư tưởng, lý luận là không thể nhanh chóng có kết quả như một số hoạt động thực tiễn khác. Sáng tạo lý luận là một hoạt động đặc biệt, đòi hỏi phải có thời gian. Immanuel Kant, một trong những triết gia vĩ đại nhất thế giới, cả đời chỉ đọc sách và nghiên cứu, thế mà cũng phải đến khi ông 57 tuổi mới có thể cho ra mắt cuốn Phê phán lý tính thuần tuý, một trong bộ ba tác phẩm phê phán nổi tiếng của ông. Bản thân C.Mác cũng mất 20 năm để viết cuốn Tư bản, song vẫn chưa thể hoàn thành. Sáng tạo lý luận đòi hỏi sự đầu tư rất lớn cả về công sức lẫn thời gian như vậy, song hoạt động chống phá về tư tưởng trên không gian mạng lại diễn ra từng phút, từng giây, đây là một trong những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Không thể để những người làm công tác lý luận liên tục trả lời, đối thoại hoặc phản bác mọi thông tin sai trái, điều này vừa lãng phí tài nguyên trí tuệ, vừa có thể kéo lùi các nhà khoa học xuống những điều vụn vặt. Cần khai thác tối đa trí tuệ, công sức của những người làm công tác lý luận để đấu tranh ở những luận điểm lớn, những luận điểm nền tảng mang tính then chốt, mang tính nguyên tắc của Đảng, của chế độ, của dân tộc; đấu tranh với những trường phái, những nhân vật đại diện mang tính tiêu biểu của thế lực thù địch trong và ngoài nước.

Ba là, truyền thông tư tưởng trên không gian mạng cần hay hơn, hấp dẫn hơn.

Thời đại thông tin ngày nay tạo ra những thay đổi lớn trong cấu trúc dư luận, thay đổi cách thức và phương tiện truyền thông, thậm chí còn tái tạo lại “hệ sinh thái” mới của nội dung. Trên không gian mạng, mọi người không muốn xem, nghe các bài viết một chiều.Trên không gian mạng, quyền lực của các tổ chức không tác động được đến cơ chế tiếp cận thông tin. Đồng thời, quan niệm truyền thông truyền thống lấy tin tức làm trung tâm đã dần thay đổi, chức năng giáo dục, chức năng tư tưởng của truyền thông ngày càng giảm đi, đồng thời các chức năng giao tiếp, chức năng giải trí ngày càng tăng lên. Nội dung thể hiện luận điểm của những người tham gia không gian mạng có xu hướng ngày càng ngắn lại, từ những cuộc tranh luận hàng trăm trang trên các diễn đàn (forum) trước kia, giờ đây được rút gọn, cá nhân hoá thành các bài dài trên trang cá nhân (blog), rồi rút ngắn hơn nữa ở các tút trên Facebook, rồi các thông điệp cực ngắn trên Twitter. Bản thân các video dài trên Youtube đã ngắn đi nhiều ở các nền tảng video khác, đặc biệt là ở TikTok với độ dài chỉ khoảng 15 giây. Với không gian mạng như vậy thì các bài nghiên cứu lý luận, các bài viết mang tính tư tưởng như hiện nay dường như dài và khô khan với cư dân mạng. Chính vì vậy, truyền thông tư tưởng trên không gian mạng muốn đạt hiệu quả thì thông tin cần phải thực sự hấp dẫn, thu hút và lấy được sự yêu thích của không chỉ đảng viên, mà cả của người dân, đặc biệt là giới trẻ.

Truyền thông tư tưởng trên không gian mạng có được người dân đón nhận và tham gia hay không phải là một tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ thành công của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Truyền thông tư tưởng cần chủ động thích ứng với hoàn cảnh mới, tình hình mới, nhiệm vụ mới trên không gian mạng, không ngừng đổi mới quan niệm, hình thức, phương pháp, phương tiện, thậm chí thay đổi phương thức diễn ngôn truyền thống, sử dụng cách diễn ngôn hiện đại, hấp dẫn, sinh động một cách lành mạnh và thẩm mỹ để lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân./.

PGS.TS. NGUYỄN TÀI ĐÔNG

Viện trưởng Viện Triết học, 

Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

 

Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII

[CAND] Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chủ trì Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành ...